(VOV.vn) – Trước những yêu cầu phát triển của kinh tế nước ta, sửa đổi hai Luật này là việc làm cần thiết và cần tập trung vào các nội dung: thuế suất, diện nộp thuế, ưu đãi thuế…
Sáng nay (22/2), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Uỷ ban Tài chính Ngân sách Quốc hội và Bộ Tài chính tổ chức Hội thảo góp ý dự thảo Luật Thuế Giá trị gia tăng sửa đổi và Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi.
Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) hiện hành được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 17/6/2003, có hiệu lực thi hành từ 1/1/2004 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội.
Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) được thông qua ngày 10/5/1997 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999 để thay thế cho thuế doanh thu trước đây. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào những năm đầu nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của nước ta.
Với Luật Thuế GTGT thì vấn đề bất cập là: diện không chịu thuế quá rộng, áp dụng hai phương pháp tính thuế, không có ngưỡng thu thuế, việc hướng tới một thuế suất thống nhất… chưa được đưa vào nội dung sửa đổi cơ bản. Việc sửa đổi bổ sung theo nội dung tờ trình và dự thảo Luật sửa đổi còn mang tính tạm thời.
Theo bà Nguyễn Thị Cúc-nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục thuế (Bộ Tài chính), đối tượng không chịu thuế GTGT theo luật hiện hành có 28 nhóm là quá rộng, trong đó khoản 28 lại được xác định trên cơ sở thu nhập của các cá nhân kinh doanh để là cơ sở xác định mức không chịu thuế là chưa hợp lý. Hàng hoá dịch vụ không chịu thế GTGT chỉ nên để các nhóm như: sản phẩm nông nghiệp và một số nguyên liệu đầu vào phục vụ cho lĩnh vực này, dịch vụ giáo dục, y tế, dịch vụ tài chính, hoạt động viện trợ, văn hoá phẩm thiết yếu và hoạt động vận tải hành khách.
Đối với thuế suất thuế TNDN, việc điều chỉnh từ 28% xuống 25% và bỏ thuế thu nhập bổ sung đối với thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất như nội dung tờ trình và dự thảo Luật của Ban soạn thảo là bước đột phá lớn để tạo đà cho doanh nghiệp tăng tích luỹ, tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh thuế suất 25%, thì theo xu hướng phát triển các doanh nghiệp thuộc một chủ sở hữu vốn có chiều hướng thuyên giảm, doanh nghiệp có đa chủ sở hữu vốn sẽ ngày càng tăng, trong đó có sự bùng nổ của công ty cổ phần, các hình thức góp vốn liên doanh, liên kết… Vì vậy, khoản lợi tức cổ phần, lợi tức thu được từ các hình thức góp vốn của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Do vậy, thông lệ quốc tế cũng có xu hướng giảm thuế thu nhập công ty và điều chỉnh thêm thuế lợi tức cổ phần.
Luật sư Trương Thanh Đức – Giám đốc Công ty Luật ANVI cho rằng, dự luật không nên loại trừ những khoản chi hợp lý, cần thiết. Ông Đức đưa ra dẫn chứng: Khoản 4, điều 8 (các khoản chi không đợc trừ khi xác định thu nhập chịu thuế) của Luật TNDN qui định về một trong những khoản chi hợp lý để xác định thuế thu nhập là “trang phục”. Tuy nhiên, Luật không chỉ ra được mức cụ thể hay đặt ra nguyên tắc để tính mức chi phí hợp lý chịu thuế, mức nào được tính và mức nào không được tính vào chi phí hợp lý. Nhiều doanh nghiệp chi tiền rất thực tế và hợp lý để may đo, trang cấp đồng phục cho người lao động, nhưng lại không được coi là chi phí hợp lý nếu chi trên 500 ngàn đồng/năm.
Bên cạnh đó, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của nước ta hiện nay được coi là gần như phức tạp nhất so với thông lệ quốc tế. Cơ quan thuế cần kết hợp với Bộ Kế hoạch – Đầu tư rà soát lại danh mục địa bàn, lĩnh vực ưu đãi đầu tư để bảo đảm việc ưu đãi trở thành hiện thực. Mặt khác, cũng cần xem lại thuế suất và thời gian ưu đãi đầu tư để bảo đảm tính công bằng, đồng thời đáp ứng yêu cầu rõ ràng, dễ thực hiện để đạt được mục tiêu của việc ưu đãi đầu tư. Bởi theo ông Phạm Đình Thi – thành viên Ban soạn thảo Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi thì vẫn có những doanh nghiệp mười mấy năm vẫn hưởng thuế suất ưu đãi đầu tư./.
Vũ Hạnh
—————————————
Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam ngày 21-2-2008:
(155/909)