1.537. Có nên tính thuế thu nhập cá nhân với khoản lãi gửi tiết kiệm?

(HQ) – Việc đề xuất đánh thuế thu nhập cá nhân (TNCN) với khoản tiền lãi gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng vừa qua nhận được nhiều ý kiến dư luận. Theo tìm hiểu của phóng viên, nhiều chuyên gia cho rằng, nộp thuế là cần thiết.

co nen tinh thue thu nhap ca nhan voi khoan lai gui tiet kiem

Hoạt động quyết toán thuế tại Cục Thuế Hà Nội. Ảnh: Thuỳ Linh.

Tính thuế để tạo sự công bằng

Xung quanh việc sửa đổi bổ sung một số điều của 5 Luật thuế, trong đó có Thuế TNCN, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI đề xuất, cần đánh thuế với khoản tiền lãi gửi tại các tổ chức tín dụng.

Phân tích cụ thể hơn, luật sư Đức nhấn mạnh, theo quy định tại khoản 3, Điều 3 về thu nhập chịu thuế của Luật Thuế TNCN, thì khoản thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm tiền lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác (trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ) phải nộp thuế 5%. Tuy nhiên, tại khoản 7, Điều 4 của Luật Thuế TNCN thì “thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng” được miễn thuế.

Điều này có nghĩa, nếu như cá nhân thu lãi từ việc cho công ty, pháp nhân, cá nhân khác vay hoặc được chia cổ tức đều bị đánh thuế 5%, còn việc thu lãi tiền gửi ngân hàng lại không phải nộp thuế cho dù khoản lãi lên tới hàng chục tỷ đồng. Chưa kể, nếu thu nhập từ tiền lương và hầu hết các khoản khác cộng lại ở mức vài trăm triệu đồng trở lên thì lại bị đánh thuế từ 20%-35%.

Theo ông Đức, quy định này vô lý bởi thực tế có những người thu nhập từ lãi gửi tiết kiệm tại ngân hàng có khi lên tới hơn 200 triệu đồng/năm mà lại không phải nộp thuế TNCN, trong khi rõ ràng về bản chất khoản tiền này là thu nhập đầu tư vốn. Nếu một cá nhân thu lãi từ tiền gửi ngân hàng lên đến trên 240 triệu đồng/năm thì là người có thu nhập cao, là nhà giàu, chứ không phải là người có thu nhập nhấp, hay nhà nghèo. Đấy là chưa kể những người như vậy thường còn các khoản thu nhập thường xuyên và bất thường khác nữa.

Do đó, cần phải tính thuế TNCN với khoản tiền lãi này. Tuy nhiên, để tạo sự công bằng, ông Đức đề xuất chỉ nên áp dụng đối với khoản lãi vượt 2 lần mức khởi điểm chịu thuế TNCN (tương đương 216 triệu đồng/năm hiện nay, và dự kiến là 240 triệu đồng từ năm 2019). Mặt khác, ngoài việc bổ sung khoản thuế thu nhập từ tiền lãi cho vay của cá nhân, cần phải quy định thêm việc đánh thuế đối với tiền gửi nói chung, tiền gửi tiết kiệm nói riêng tại các tổ chức tín dụng khi vượt một mức nhất định, chẳng hạn cao hơn 2 lần mức thuế khởi điểm mức thu nhập tính thuế TNCN (tính theo năm).

Ủng hộ quan điểm cần phải thuế trên khoản tiền lãi gửi ngân hàng, trao đổi với phóng viên, TS. Nguyễn Trí Hiếu phân tích thêm, cần phải nhìn thấy những điểm lợi từ đề xuất này. Tiền lãi gửi tiết kiệm được xem là một khoản thu nhập bình thường giống như thu nhập từ các hoạt động kinh doanh khác như bất động sản, trái phiếu. Khoản tiền lãi này chính là lợi nhuận phát sinh mới sau khi gửi vào ngân hàng, nên phù hợp với nguyên tắc thuế của Việt Nam.

Mặt khác, trong điều kiện NSNN đang gặp khó khăn, thì việc điều chỉnh chính sách thu thuế nhất là với các khoản tiền lãi gửi tiết kiệm là cần thiết. Hơn nữa, cách làm này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại Mỹ, mỗi năm người gửi tiết kiệm đều phải khai báo tổng số tiền lãi thu được từ hoạt động gửi tiết kiệm và sẽ bị tính thuế TNCN. Tuy nhiên, chỉ thuế TNCN với khoản tiền lãi, chứ không phải là khoản tiền mà người dân gửi vào ngân hàng.

Không ảnh hưởng tới huy động vốn của ngân hàng?

Trước nhiều ý kiến lo ngại việc đánh thuế khoản lãi tiền gửi làm giảm huy động của ngân hàng ông Đức cho hay, nếu vì việc này mà ảnh hưởng tới huy động vốn của ngân hàng thì phải thấy rằng chẳng qua tiền đó đã chạy vào sản xuất kinh doanh. Còn nếu đánh thuế mà người dân lại phải phân nhỏ tiền thành các gói nhỏ để không phải nộp thuế cũng không thể gây ra hệ lụy lớn.

Thậm chí, điều này còn tạo thêm sự công bằng cho các ngân hàng nhỏ, qua đó đảm bảo sự an toàn hơn cho chính người gửi tiết kiệm, vì mức chi trả bảo hiểm tiền gửi đang khá thấp và được tính riêng biệt theo từng ngân hàng. Cũng theo phân tích của ông Đức, cần khuyến khích người có nhiều tiền chuyển sang đầu tư kinh doanh, thay vì gửi vào ngân hàng.

Do vậy, “việc đánh thuế khoản lãi tiền gửi lớn để những ai coi việc gửi tiền ngân hàng là một kênh chính để đầu tư phải cân nhắc lại quyết định của mình. Còn tất nhiên, nếu vì thuế suất 5% thu nhập tiền lãi mà người giàu đem tiền đi trực tiếp đầu tư, kinh doanh, góp vốn, mua cổ phần, mua trái phiếu thì quá tốt” – ông Đức nhấn mạnh.

Trong khi đó, dưới góc độ chuyên gia tài chính ngân hàng ông Trí Hiếu khẳng định, nếu đánh thuế cơ quan quản lý cũng cần phải lường trước được những khó khăn, thách thức mà trước mắt là ảnh hưởng tới việc huy động vốn của ngân hàng. Những người có tiền gửi tiết kiệm có thể vì việc đánh thuế sẽ đầu tư vào các lĩnh vực khác.

Và để thực hiện được điều này, ông Hiếu dẫn chứng, tại Mỹ, việc đóng thuế tiền lãi gửi tiết kiệm không phải do ngân hàng trực tiếp trừ khi trả lãi cho người dân mà số tiền này người gửi sẽ phải đóng cho cơ quan thuế.

Tại Mỹ, mỗi công dân đều có 1 mã số an sinh xã hội, khi trả lãi cho khách hàng, ngân hàng chỉ cần báo số lãi và mã số an sinh của người đó cho cơ quan thuế. Sau đó, cơ quan thuế sẽ thu thuế với các cá nhân có lãi tiền gửi tiết kiệm.

Còn tại Việt Nam, do chưa có hệ thống mã an sinh cũng như hệ thống hạ tầng thông tin đầy đủ, đồng đều do vậy nếu triển khai ngân hàng là đơn vị trực tiếp giữ lại số tiền thuế mà các cá nhân sẽ phải nộp. Đồng thời, để thuận lợi quá trình thí điểm Việt Nam nên áp dụng đánh thuế đồng đều ở mức thuế suất 5% cho tất cả các khoản lãi gửi tiết kiệm, sau này có thể áp dụng phương pháp lũy tiến.

Ông Hiếu cũng khẳng định, mặc dù, việc đánh thuế đại trà 5% này sẽ không thể tạo ra sự công bằng tuyệt đối, song là giải pháp dễ thực hiện nhất trong bối cảnh hiện nay. Việc tính thuế tiền lãi gửi tiết kiệm thì cần áp dụng chính sách thuế TNCN khác cũng cần được duy trì.

Hồng Vân

——————

Hải quan (Tài chính) 22-9-2017:

https://haiquanonline.com.vn/co-nen-tinh-thue-thu-nhap-ca-nhan-voi-khoan-lai-gui-tiet-kiem-38442.html

(719/1.320)

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,970