(ANVI) – Hội thảo Lấy ý kiến về Dự thảo Luật các TCTD (Dự thảo 5 ngày 13-8-2009)
Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức tại Hà Nội ngày 26-8-2009
- Nhiều quy định chặt chẽ hơn so với quy định hiện hành:
- Về Bảo mật thông tin (Điều khoản 14.2): Luật hiện hành chỉ yêu cầu bảo mật thông tin với tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng. Dự thảo mở rộng bảo mật “thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng”;
- Các hoạt động mà ngân hàng không còn được trực tiếp thực hiện như hiện nay là: Bảo lãnh phát hành chứng khoán, mua cổ phiếu của TCTD khác (Điều khoản 103.6, mua bán cổ phiếu của các công ty (Điều khoản 107.2);
- Về mức góp vốn, mua cổ phần vào 1 doanh nghiệp là 11% của doanh nghiệp đó (Điều khoản 103.4 và 129.1) và tổng mức góp vốn, mua cổ phần là 40% của ngân hàng (Điều khoản 129.2). Trước đây tỷ lệ này do Thống đốc NHNN quy định và có thể được phép vượt tỷ lệ trong những trường hợp chính đáng như góp vốn thành lập công ty để xây dựng và quản lý trụ sở của ngân hàng. Nếu đưa tỷ lệ cứng này vào Luật thì sẽ vướng mắc.
- Nhiều quy định không rõ:
- Quy định Công ty tài chính được “cho vay, kể cả cho vay trả góp, cho vay tiêu dùng” (Điều 108.1.d); trong khi ngân hàng thương mại lại chỉ được “cho vay” (Điều 908.3.a). Như vậy thì liệu ngân hàng có được cho vay tiêu dùng hay không, nhất là lại xuất hiện một số quy định phải thành lập công ty cho vay tiêu dùng (Điều 103.3 và 103.4);
- Quy định ngân hàng thương mại “phải” thành lập Công ty để hoạt động kinh doanh “quản lý tài sản bảo đảm” (Điều khoản 103.2.d), trong khi nếu không thành lập thì đương nhiên ngân hàng vẫn phải “quản lý tải sản bảo đảm”;
- Một số dịch vụ trước đây các ngân hàng được trực tiếp thực hiện, nay không biết có được làm hay không, vì không được liệt kê trong các hoạt động được phép (các điều 98 đến 107). Ví dụ hoạt động kiều hối chỉ được nhắc đến khi quy định liên quan đến việc thành lập công ty con, công ty liên kết (Điều 103.3.a và 103.4); trong khi đó lại quy định rõ là Công ty tài chính được “chi trả kiều hối” (Điều 111.6).
- Về giấy phép thành lập và hoạt động (các điều từ 19-21):
- Với khoảng gần một chục điều kiện về vốn, về người sáng lập và quản trị, về hồ sơ, thủ tục, để được phép thành lập TCTD. Nhưng lại phải đáp ứng được còn hàng chục điều kiện khác về vốn, kho tiền, trụ sở, tổ chức, bộ máy, quản lý rủi ro, công nghệ thông tin, quy định quản lý nội bộ… (các điều 24 và 26) để TCTD được phép hoạt động;
- Do đó, thay vì quy định cấp chung một Giấy phép thành lập và hoạt động, nên xem xét tách bạch thành hai loại giấy phép, trong đó giấy phép thành lập chỉ là điều kiện ban đầu (có tính chất nguyên tắc), làm căn cứ để triển khai các điều kiện xin giấy phép hoạt động.
- Về thời hạn cấp giấy phép (Điều 22):
- Thời hạn cấp phép thành lập và hoạt động là 360 ngày (chưa kể thời hạn chuẩn bị các điều kiện để có thể đi vào hoạt động sau khi được cấp giấy phép tối đa là 360 ngày nữa) là hợp lý;
- Tuy nhiên, nếu tách ra thời hạn này thành hai giai đoạn cấp phép: Thời hạn cấp Giấy phép thành lập là 6 tháng và thời hạn cấp Giấy phép hoạt động là 6 tháng như để nghị ở trên thì sẽ hợp lý hơn.
- Về lệ phí cấp giấy phép (Điều 23):
- Dự thảo 4 trước đây quy định lệ phí cấp giấy phép thành lập và hoạt động bằng 1% vốn điều lệ. Sau khi bị kêu là quá cao (khi Luật này có hiệu lực, thì mức lệ phí tối thiểu để thành lập ngân hàng lên đến 30 tỷ đồng), thi Dự thảo 5 này lại “buông súng” bằng quy định “phải nộp một khoản lệ phí cấp giấy phép theo quy định của pháp luật”;
- Điều 13, Pháp lệnh Phí và lệ phí năm 2001 quy định “Mức thu lệ phí được ấn định trước đối với từng công việc, không nhằm mục đích bù đắp chi phí,…”. Như vậy, theo đúng tinh thần ấy thì lệ phí cấp phép ngân hàng chỉ còn là một vài chục triệu đồng không hơn;
- Đề nghị phải giữ quy định cụ thể về mức lệ phí. Tuy nhiên, thay vì ấn định mức lệ phí bằng 1%, thì cần xử lý theo phương án chỉ là 0,1% (giảm xuống 10 lần) nhưng kèm theo một khoản ký quỹ vài phần trăm trong suốt quá trình từ khi nộp hồ sơ xin phép thành lập cho đến khi được cấp giấy phép hoạt động. Như vậy, sẽ dung hòa được giữa mục tiêu đặt ra rào cản hợp lý với lợi ích của nhà đầu tư. Đồng thời còn hạn chế tổn thất cho các TCTD đã được cấp phép thành lập mà vì lý do nào đó không khai trương hoạt động được.
- Về tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát (Điều 44 và 45):
- Dự luật quy định Ban kiểm soát của TCTD có tối thiểu 3 thành viên, trong đó phải có ít nhất 1/2 thành viên chuyên trách, không đồng thời đảm chức vụ, công việc khác tại tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp khác. Đồng thời, Ban kiểm soát có bộ phận giúp việc, bộ phận kiểm toán nội bộ chuyên trách (Điều 41);
- Đề nghị xem lại sự cần thiết của việc hình thành Ban kiểm soát vì chồng chéo nhiệm vụ với bộ máy kiểm toán nội bộ. Ba nhiệm vụ quan trọng nhất của Ban kiểm soát là “Giám sát việc tuân thủ các quy định”, ”Thẩm định báo cáo tài chính 06 tháng đầu năm và hằng năm của TCTD” và ”Kiểm tra sổ kế toán, các tài liệu khác và công việc quản lý, điều hành hoạt động của TCTD” thì cũng đều là nhiệm vụ cơ bản của Kiểm toán nội bộ và có sự tham gia bắt buộc của Kiểm toán độc lập (Điều 42);
- Trong trường hợp vẫn buộc phải để lại Ban kiểm soát, thì cũng hoàn toàn không cần thiết quy định phải có ít nhất ½ thành viên chuyên trách hoặc nếu có thành viên chuyên trách thì cũng không cần thiết phải cấm kiêm nhiệm kiểm toán nội bộ (vì bản thân kiểm toán nội bộ đã phải độc lập hoàn toàn với bộ máy điều hành).
- Về thẩm quyền quyết định lựa chọn tổ chức kiếm toán độc lập (điểm n, khoản 3, Điều 59 – Đại hội đồng cổ đông):
- Nghị định 49/2000/NĐ-CP giao cho HĐQT. Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16-7-2009 của Chính phủ về Tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại sắp có hiệu lực cũng giao cho HĐQT lựa chọn tổ chức kiểm toán độc lập. Chúng tôi đã góp ý giao cho HĐQT tại Dự thảo 4, nhưng Dự thảo 5 lại vẫn để thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông;
- Đề nghị giao thẩm quyền này cho HĐQT, vì việc lựa chọn phải thực hiện vào cuối năm tài chính, trong khi cuộc họp thường kỳ Đại hội đồng cổ đông lại vào đầu năm. Trên thực tế Đại hội đồng cổ đông có lựa chọn thì cũng chỉ thông qua một danh sách tổ chức kiểm toán chung chung từ đầu năm hoặc lại buộc phải uỷ quyền cho HĐQT.
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT (Điều 63):
- Khoản 11 quy định HĐQT có trách nhiệm “Ban hành các Quy định nội bộ liên quan đến tổ chức, quản trị và hoạt động của tổ chức tín dụng phù hợp với các quy định của pháp luật và của Luật này, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Ban kiểm soát hoặc của Đại Hội đồng cổ đông.”
- Cần xem lại quy định này, vì mỗi ngân hàng có hàng trăm quy định về tổ chức và hoạt động. Quy định như thế này thì sẽ được hiểu rằng Tổng giám đốc sẽ không được ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về nghiệp vụ để phục vụ cho điều hành công việc hằng ngày. Trong khi đó lại có nhiều điều khoản quy định Tổng Giám đốc được ban hành “các quy chế, quy định nội bộ” (Điều khoản 49.5). Ngoài ra Dự thảo quy định rất không thống nhất về loại hình và thẩm quyền ban hành quy chế, quy định nội bộ. Chẳng hạn Điều 63 nói trên thì HĐQT ban hành Quy định, đến Đ4iều 65 thì lại là Quy chế.
- Về phạm vi được phép hoạt động (khoản 2, Điều 90):
- Dự luật quy định “TCTD không được phép tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác quy định trong giấy phép do NHNN cấp cho TCTD”. Như vậy, TCTD chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép, hay nói cách khác, hoạt động của các TCTD phải bám sát từng chữ ghi trong giấy phép (kể cả giấy phép “con”). Đây là quy định quá khắt khe, sẽ nảy sinh nhiều vướng mắc bất hợp lý. Quy định này sẽ làm cho nội dung trong giấy phép vừa thừa, vừa thiếu và cứ phải thay đổi liên tục mà chưa chắc đã chỉ ra được hoạt động cụ thể nào được phép. Ví dụ giấy phép của nhiều ngân hàng hiện nay ghi: “Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế theo quy định của pháp luật”, thì cũng chưa thể biết là TCTD đó đã được hay chưa được phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế;
- Cần sửa lại điều này theo hướng, TCTD được tiến hành mọi hoạt động kinh doanh đã được NHNN cho phép nói chung (có thể là cho nhiều TCTD), thay vì phải ghi cụ thể trong từng giấy phép. Hoặc là NHNN công bố cụ thể danh mục các nghiệp vụ kèm theo các điều kiện cụ thể để thực hiện. TCTD căn cứ vào những điều kiện đó, nếu đáp ứng được thì chỉ cần đăng ký với NHNN, thậm chí chỉ cần báo cáo (thông báo) NHNN.
- Về lãi suất huy động và cho vay (Điều 91):
- Dự thảo quy định: TCTD được quyền ấn định lãi suất và “có quyền thỏa thuận về lãi suất”. Quy định như vậy vẫn không thể bứt được ra khỏi việc khống chế lãi suất không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định tại Điều 476 của Bộ luật Dân sự;
- Đề nghị cần quy định rõ hơn để thoát khỏi trần lãi suất trên, trừ trường hợp đặc biệt. Về yêu cầu chung, Uỷ ban Kinh tế cần tiếp tục kiến nghị sửa trần lãi suất nói trên để tránh vướng mắc trong hoạt động của TCTD nói riêng cũng như đối với mọi quan hệ kinh tế, dân sự nói chung;
- Cùng với Luật NHNN, cần xác định rõ Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vón, để tránh đặt thêm một loại lãi suất không dựa phù hợp với thị trường, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các bên liên quan.
- Về việc cấm ngân hàng thương mại trực tiếp mua bán cổ phiếu (Điều 107):
- Điểm b, khoản 2 của Điều 107, quy định ngân hàng thương mại chỉ được mua bán cổ phiếu thông qua công ty con, công ty liên kết. Tuy nhiên nếu là việc góp vốn mua cổ phần để thành lập công ty hoặc khi tăng vốn điều lệ thì lại được trực tiếp thực hiện. Việc này cũng là hoạt động mua cổ phiếu và đã được phép mua thì khi cần thiết cũng sẽ đương nhiên được bán;
- Do vậy cần xem lại, quy định theo hướng hạn chế chứ không cấm toàn bộ việc mua bán cổ phiếu;
- Ngoài ra, Điều khoản 107.1.e quy định ngân hàng thương mại được trực tiếp “mua bán trái phiếu Chỉnh phủ”, mà không nhắc đến trái phiếu doanh nghiệp. Như vậy không hiểu là được hay không được mua bán trái phiếu doanh nghiệp.
- Về việc cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu (khoản 1, Điều 126 – Những trường hợp không được cấp tín dụng):
- Theo giải thích hiện nay, khái niệm cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu rất rộng, nên cần phải xem lại. Ví dụ cho vay cầm cố bằng Thẻ tiết kiệm để mua cổ phiếu hay cho vay thanh toán trước tiền bán cổ phiếu đã khớp lệnh trên Sở Giao dịch chứng khoán, thì rủi ro gần như bằng không và cũng không tác động xấu đến thị trường, thì không nhất thiết phải cấm triệt để;
- Do vậy, Dự thảo chỉ nên đặt ra nguyên tắc giới hạn hay giao quyền “cấm hay không cấm” cho NHNN thay vì cấm toàn bộ hoạt động cho vay này.
- Về giới hạn bị hạn chế cấp tín dụng (Điều 127):
- Khoản 2 quy định Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với tất cả 5/6 đối tượng tại khoản 1 không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD. Nhưng khoản 4 lại quy định Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với 1/6 đối tượng tại khoản 1 lại được phép lên đến 10% vốn tự có của TCTD;
- Đề nghị không tách riêng tỷ lệ giới hạn thành hai nhóm và đặc biệt là cần tăng tỷ lệ giới hạn đối với cả 6 đối tượng này từ 5 lên 20% vốn tự có.
- Về thời hạn xử lý vướng mắc (Điều 162):
- Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16-7-2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại quy định thời hạn để xử lý các trường hợp vi phạm quy định mới, như về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần là 2 năm, tức là 15-9-2011 phải giảm xuống. Luật này dự kiến có hiệu lực từ năm 2011 và lại cho phép thời hạn 2 năm tiếp theo để xử lý. Riêng về tỷ lệ sở hữu vốn cồ phần thì lại giao cho “NHNN hướng dẫn cụ thể thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với TCTD”
- Như vậy sẽ hiểu là 2 năm nữa hay 4 năm nữa hay trong thời hạn nào, các ngân hàng cổ phần phải giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần xuống theo đúng với quy định của Luật? Đây là những vấn đề rất lớn, ảnh hưởng đến vận mệnh của một số ngân hàng cổ phần, nên cần xác định rõ theo hướng bảo đảm thời hạn xử lý một cách thật hợp lý.
Trân trọng tham gia!
—————————–
ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN
FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)
E-mail: duc.tt @anvilaw.com
Web: www.anvilaw.com
ĐT: 090.345.9070