(ANVI) – Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, góp ý Dự thảo 5 (9-9) Luật các TCTD – Vĩnh Phúc 18-19/9/2009
Nội dung gồm:
– Những vấn đề chung trang 1
– Những vấn đề cụ thể trang 4
– Về câu chữ, từ ngữ trang 14
– Về kỹ thuật soạn thảo trang 19
– Một số nội dung góp ý đã được tiếp thu trang 20
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG:
1. Về quan điểm xây dựng:
– Nhất trí với việc đưa các quy định cần thiết của Luật Doanh nghiệp vào Dự luật như hiện nay.
– Cần xác định thứ tự ưu tiên trước sau của hai Dự luật, theo đó những gì Luật NHNN đã quy định, thì Luật các TCTD dựa theo, chứ không nên cứ phải dính liền với nhau. Như vậy thì mới tránh được sự trùng lặp không cần thiết, tránh cứ sửa một chữ của Luật này cũng lại phải sửa một chữ của Luật kia. Nếu như không thể chấp nhận giải thích một thuật ngữ khác nhau trong hai Luật, thì cũng không thế chấp nhận một thuật ngữ lại được giải thích lặp lại trong hai luật như thuật ngữ “hoạt động ngân hàng”;
– Việc xây dựng một Luật đặc thù cho các TCTD, khác hẳn với doanh nghiệp nói chung theo Luật Doanh nghiệp như Dự thảo hiện nay là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, những nội dung nào đã được quy định trong Luật Doanh nghiệp mà không được quy định trong Luật này thì sẽ phải thực hiện theo Luật Doanh nghiệp. Do vậy, cần cần phải nêu được hết và cụ thể những nội dung khác biệt đối với tổ chức và hoạt động của TCTD.
– Không thể xây dựng Luật các TCTD cũng như Luật NHNN như yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay; trường hợp trong văn bản có điều, khoản mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, những vấn đề chưa có tính ổn định cao thì ngay tại điều, khoản đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết.”[1] vì hoạt động ngân hàng chắc chắn còn phải phụ thuộc vào rất nhiều văn bản quy định chi tiết. Tuy nhiên, Luật cũng cần chi tiết hoá tối đa, để văn bản dưới luật cụ thể hoá cùng một điều luật không thể đặt ra những quy định hoàn toàn khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Như thế, thì đồng nghĩa với việc văn bản dưới luật vô hiệu hoá Luật.[2] Vì vậy, đề nghị quy định cụ thể hơn, trong đó có một số nội dung sau:
+ Về điều kiện đối với cổ đông sáng lập ngân hàng (Dự luật giao toàn quyền cho NHNN quy định);
+ Về mức vốn pháp định đối với các TCTD (ít nhất là dăm ba năm tới) (Dự luật giao cho Chính phủ quy định);
+ Về việc “đảo nợ” theo Luật các TCTD hiện hành sẽ bị cấm hay được làm có điều kiện (không được đề cập đến ở Dự luật mới). Đây là vấn đề rất quan trọng và rất nhậy cảm, cần thiết phải chỉ rõ, không nên vì khó mà không quy định thì sẽ rất khó cho các TCTD.
- Nhiều quy định chặt chẽ hơn so với quy định hiện hành:
– Về Bảo mật thông tin (Điều khoản 14.2): Luật hiện hành chỉ yêu cầu bảo mật thông tin với tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng. Dự thảo mở rộng bảo mật “thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng”;
– Các hoạt động mà ngân hàng không còn được trực tiếp thực hiện như hiện nay là: Mua cổ phiếu của TCTD khác (Điều khoản 103.6); bảo lãnh phát hành chứng khoán (Điều khoản 107.2a), mua bán cổ phiếu của các công ty (Điều khoản 107.2.b);
– Về mức góp vốn, mua cổ phần vào 1 doanh nghiệp là 11% của doanh nghiệp đó (Điều khoản 103.4 và 129.1) và tổng mức góp vốn, mua cổ phần là 40% của ngân hàng (Điều khoản 129.2). Trước đây tỷ lệ này do Thống đốc NHNN quy định và có thể được phép vượt tỷ lệ trong những trường hợp chính đáng như góp vốn thành lập công ty để xây dựng và quản lý trụ sở của ngân hàng. Nếu đưa tỷ lệ cứng này vào Luật thì sẽ vướng mắc;
– Giới hạn cấp tín dụng (khoản 1, Điều 128):
+ Dự thảo quy định “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có”, trong khi quy định hiện hành cho phép “Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có” (Điều khoản 8.1.1, Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN);
+ Dự thảo quy định “tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có”, trong khi quy định hiện hành cho phép đến 50% (Điều khoản 8.1.2, Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN). Theo quy định cũ, khi dư nợ quá 15% do thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì tại một thời điểm được phép vượt 15%, sau đó mới giảm dần, thay vì ngay từ đầu phải phòng tránh để không dẫn đến quá 15% như Dự luật.
- Nhiều quy định không rõ:
– Tuy Dự luật này đã rõ ràng, chi tiết hơn rất nhiều so với Luật các TCTD hiện hành, tuy nhiên vẫn còn bỏ ngỏ nhiều nội dung cơ bản, không quy định cụ thể, mà “nhường” cho văn bản dưới luật. Sau khi Luật này được ban hành, vẫn còn nhiều nội dung chưa thể làm được, chưa biết “ngô khoai” phải trái thế nào như:
+ Không biết điều kiện thế nào để có thể trở thành cổ đông sáng lập ngân hàng, mà chỉ biết chắc chắn là khác xa so với Luật Doanh nghiệp. Theo quy định, phải đưa vào Điều lệ và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh danh sách Cổ đông sáng lập. Tuy nhiên khái niệm Cổ đông sáng lập được đề cập đến trong Dự thảo cũng như quy định hiện hành của NHNN, thì lại khác hẳn với quy định của Luật Doanh nghiệp. Vì vậy nếu không được xác định cụ thể trong Dự luật thì sẽ xung đột, vướng mắc sau này;
+ Không biết mức vốn pháp định (một trong những vấn đề cốt lõi đối với TCTD) sẽ lên xuống, tăng giảm thế nào để hoạch định chiến lược phát triển;
+ Không biết hợp đồng tín dụng sẽ được thực hiện theo quy định chung của Bộ luật Dân sự về cho vay hay phải có thêm những điều kiện đặc thù khác nữa. Ví dụ trước đây, mục đích cho vay là một trong những điều kiện bắt buộc theo Luật các TCTD hiện hành, thì Dự luật đã không còn đề cập đến và cũng không giao cho NHNN quy định cụ thể;
+ Không biết “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” bị cấm vay vốn là ai (điểm d, khoản 1, Điều 127 – Hạn chế cấp tín dụng). Liệu đó là “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” đối với chính khoản tín dụng đó, hay là người thuộc phòng nghiệp vụ cấp tín dụng hay là người thuộc Chi nhánh của TCTD hay là người trong một TCTD hay là người đảm nhiệm công việc này trong tất cả các TCTD;
+ Không biết việc “đảo nợ” theo Luật các TCTD hiện hành sẽ bị cấm hay được làm có điều kiện, vì không hề được nhắc đến ở Dự luật mới.
– Vì vậy đề nghị cần quy định rõ hơn những nội dung có tính chất cơ bản hoặc ít nhất là cũng cần đề cập đến về mặt nguyên tắc để làm cơ sở cụ thể hoá sau này, tránh tình trạng chỉ được quy định trong các văn bản dưới luật sẽ dễ dẫn đến tình trạng đương nhiên bị quy định của các đạo luật khác vô hiệu hoá.
– Quy định Công ty tài chính được “cho vay, kể cả cho vay trả góp, cho vay tiêu dùng” (Điều 108.1.d); trong khi ngân hàng thương mại lại chỉ được “cho vay” (Điều 98.3.a). Như vậy thì liệu ngân hàng có được cho vay tiêu dùng hay không, nhất là lại xuất hiện một số quy định phải thành lập công ty cho vay tiêu dùng (Điều 103.3 và 103.4);
– Một số dịch vụ trước đây các ngân hàng được trực tiếp thực hiện, nay không biết có được làm hay không, vì không được liệt kê trong các hoạt động được phép (các điều 98 đến 107). Ví dụ hoạt động kiều hối chỉ được nhắc đến khi quy định liên quan đến việc thành lập công ty con, công ty liên kết (Điều 103.3.a và 103.4); trong khi đó lại quy định rõ là Công ty tài chính được “chi trả kiều hối” (Điều 111.6).
II/ NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ:
1. Về thuật ngữ “vốn tự có”:
– Được quy định tại khoản 10, Điều 4 (Giải thích từ ngữ) và nhiều điều khác.
– Không cần thiết tạo ra một khái niệm mới không khác biệt nhiều so với khái niệm “vốn chủ sở hữu”, nhằm thống nhất với thuật ngữ chung đã được quy định trong Luật Kế toán năm 2003 và pháp luật về tài chính, kế toán hiện hành. Nếu các giới hạn nên quy định theo mức vốn chủ sở hữu, trường hợp đặc biệt thì tính trên vốn chủ sở hữu và trừ đi hoặc cộng thêm nguồn vốn khác.
2. Về sử dụng các thuật ngữ liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 5):
– Bên cạnh quy định các tổ chức không phải là TCTD không được phép sử dụng cụm từ hoặc thuật ngữ “tổ chức tín dụng”, “ngân hàng”, “công ty tài chính”, “công ty cho thuê tài chính”, cần quy định ngân hàng được phép sử dụng tên gọi viết tắt trong biển hiệu, giấy tờ giao dịch. Nếu không thì lúc nào cũng phải ghi đầy đủ dài dòng, không cần thiết theo quy dịnh của Luật Doanh nghiệp.
– Thay vì phải ghi đầy đủ “Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam” như quy định chung, chỉ cần ghi Ngân hàng Ngoại thương.
3. Về giấy phép thành lập và hoạt động (các điều từ 19-21):
– Dự luật quy định rất nhiều hồ sơ, thủ tục liên quan đến việc cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD, tuy nhiên hầu hết chỉ là định tính, không có định lượng, chưa thể hiện được thực chất của vấn đề, tức là Luật chỉ mang tính nguyên tắc hình thức. Nếu cứ theo Luật thì không thể hình dung điều kiện cấp phép là gì, vì không có tiêu chí rõ ràng, không xác định được giá trị thực của Giấy phép. Một trong những nguyên nhân cơ bản là phạm vi điều chỉnh của Luật quá rộng, về toàn bộ tổ chức và hoạt động của tất cả các loại hình TCTD, từ cấp giấy phép thành lập cho đến giải thể, phá sản; trong khi hợp lý ra, chỉ về loại hình Ngân hàng thương mại cũng cần phải có một đạo luật, thậm chí một bộ luật riêng;
– Với các điều quy định về vốn pháp định (Điều 19); Điều kiện cấp Giấy phép (Điều 20); Hồ sơ, trình tự, thủ tục đề nghị cấp Giấy phép (Điều 21), thì hoàn toàn mới chỉ giải quyết được một khâu là cho phép thành lập TCTD, chưa thể nào hoạt động được;
– TCTD muốn đi vào hoạt động còn phải đáp ứng được một loạt các điều kiện khác như Đăng ký kinh doanh (Điều 24); đủ ít nhất là 10 nhóm Điều kiện khai trương hoạt động (Điều 26) gồm: Có Điều lệ; có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; có đủ vốn điều lệ; có kho tiền; có trụ sở; có cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, điều hành, kiểm toán, kiểm soát, quản lý rủi ro; có hệ thống công nghệ thông tin; có các quy chế quản lý nội bộ về tổ chức, hoạt động, quản lý rủi ro; quản lý mạng lưới; đã gửi đầy đủ vốn vào tài khoản phong tỏa; đã thực hiện việc đăng báo.
– Như vậy sau khi được phép thành lập, TCTD sẽ phải trải qua các điều kiện, thủ tục xem xét cho phép của NHNN thì mới được hoạt động. Đó là những loại “giấy phép” không thể thiếu. Do đó cần tách Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD thành hai loại là Giấy phép thành lập và Giấy phép hoạt động để bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng và thực tế. Giấy phép thành lập chỉ là điều kiện ban đầu, mang tính nguyên tắc để tạo điều kiện triển khai xem xét cấp Giấy phép hoạt động, có tính chất quyết định.
– Nếu cho rằng đề xuất này làm tăng thêm thủ tục hành chính, phiền hà phức tạp, rắc rối thì cũng không sai, nhưng như thế mới đúng với bản chất của vấn đề. Đồng thời điều này sẽ dẫn đến việc rút ngắn thời hạn cấp phép lên tới 360 ngày được quy định tại khoản 1, Điều 22 (Thời hạn cấp Giấy phép).
4. Về điều kiện cấp giấy phép (Điều 20 và 26):
– Điểm d, khoản 1, Điều 20 quy định để được cấp Giấy phép là phải ”Có điều lệ tổ chức và hoạt động phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật”. Tuy nhiên đến điểm a, khoản 2, Điều 26 (Điều kiện khai trương hoạt động) lại quy định ”Có Điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật và đã được đăng ký tại NHNN.”
– Như vậy, thì không biết điều lệ trước và sau khác nhau thế nào?
5. Về thời hạn cấp giấy phép (Điều 22):
– Thời hạn cấp phép thành lập và hoạt động là 180 ngày (chưa kể thời hạn chuẩn bị các điều kiện để có thể đi vào hoạt động sau khi được cấp giấy phép tối đa là 360 ngày nữa) là hợp lý;
– Tuy nhiên, nếu tách ra thời hạn này thành hai giai đoạn cấp phép: Thời hạn cấp Giấy phép thành lập là 6 tháng và thời hạn cấp Giấy phép hoạt động là 6 tháng như để nghị ở trên thì sẽ hợp lý hơn.
6. Về lệ phí cấp giấy phép (Điều 23):
– Dự thảo 4 trước đây quy định lệ phí cấp giấy phép thành lập và hoạt động bằng 1% vốn điều lệ. Sau khi bị kêu là quá cao (khi Luật này có hiệu lực, thì mức lệ phí tối thiểu để thành lập ngân hàng lên đến 30 tỷ đồng), thi Dự thảo 5 này lại “buông súng” bằng quy định “phải nộp một khoản lệ phí cấp giấy phép theo quy định của pháp luật”;
– Điều 13, Pháp lệnh Phí và lệ phí năm 2001 quy định “Mức thu lệ phí được ấn định trước đối với từng công việc, không nhằm mục đích bù đắp chi phí,…”. Như vậy, theo đúng tinh thần ấy thì lệ phí cấp phép ngân hàng chỉ còn là một vài chục triệu đồng không hơn;
– Đề nghị phải giữ quy định cụ thể về mức lệ phí. Tuy nhiên, thay vì ấn định mức lệ phí bằng 1%, thì cần xử lý theo phương án chỉ là 0,1% (giảm xuống 10 lần) nhưng kèm theo một khoản ký quỹ vài phần trăm trong suốt quá trình từ khi nộp hồ sơ xin phép thành lập cho đến khi được cấp giấy phép hoạt động. Như vậy, sẽ dung hòa được giữa mục tiêu đặt ra rào cản hợp lý với lợi ích của nhà đầu tư. Đồng thời còn hạn chế tổn thất cho các TCTD đã được cấp phép thành lập mà vì lý do nào đó không khai trương hoạt động được.
7. Về thu hồi Giấy phép (Điều 28 và 154):
– Điểm b, khoản 1 quy định một trong những trường hợp TCTD bị thu hồi Giấy phép là: TCTD giải thể. Tuy nhiên so với quy định tại khoản 3, Điều 154 (Giải thể TCTD) là lại mâu thuẫn, vì khoản này quy định một trong những trường hợp giải thể là TCTD “bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động”;
– Như vậy, thì không biết TCTD bị thu hồi Giấy phép rồi sẽ phải giải thể hay đã giải thể rồi thì sẽ bị thu hồi Giấy phép.
8. Về những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ (khoản 1, Điều 33):
– Quy định thành viên HĐQT, thành viên HĐTV không được đồng thời là “Người quản lý của TCTD khác”. Tuy nhiên, theo khái niệm về Người quản lý tại khoản 33, Điều 4, thì ngoài Chủ tịch, thành viên HĐQT, Chủ tịch, thành viên HĐTV, Tổng giám đốc (Giám đốc)” còn có thể có “các chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ của TCTD”. Điều này có thể dẫn đến trường hợp Luật không cấm, nhưng do Điều lệ mở rộng khái niệm Người quản lý, nên lại trở thành đối tượng bị cấm. Ngược lại là quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 50 (Điều kiện, tiêu chuẩn đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của TCTD), “có ít nhất 3 năm là người quản lý của TCTD”, có thể xảy ra trường hợp theo Luật thì không đáp ứng được, nhưng theo Điều lệ thì lại được;
– Vì vậy, trong các trường hợp này, cần liệt kê những chức danh bị cấm thay vì sử dụng thuật ngữ chung hoặc không mở rộng khái niệm Người quản lý.
9. Về tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát (Điều 44 và 45):
– Dự luật quy định Ban kiểm soát của TCTD có tối thiểu 3 thành viên, trong đó phải có ít nhất 1/2 thành viên chuyên trách, không đồng thời đảm chức vụ, công việc khác tại tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp khác. Đồng thời, Ban kiểm soát có bộ phận giúp việc, bộ phận kiểm toán nội bộ chuyên trách (Điều 41);
– Đề nghị xem lại sự cần thiết của việc hình thành Ban kiểm soát vì chồng chéo nhiệm vụ với bộ máy kiểm toán nội bộ. Ba nhiệm vụ quan trọng nhất của Ban kiểm soát là “Giám sát việc tuân thủ các quy định”, ”Thẩm định báo cáo tài chính 06 tháng đầu năm và hằng năm của TCTD” và ”Kiểm tra sổ kế toán, các tài liệu khác và công việc quản lý, điều hành hoạt động của TCTD” thì cũng đều là nhiệm vụ cơ bản của Kiểm toán nội bộ và có sự tham gia bắt buộc của Kiểm toán độc lập (Điều 42);
– Trong trường hợp vẫn buộc phải để lại Ban kiểm soát, thì cũng hoàn toàn không cần thiết quy định phải có ít nhất ½ thành viên chuyên trách hoặc nếu có thành viên chuyên trách thì cũng không cần thiết phải cấm kiêm nhiệm kiểm toán nội bộ (vì bản thân kiểm toán nội bộ đã phải độc lập hoàn toàn với bộ máy điều hành).
10. Về điều kiện bầu thành viên HĐQT, thành viên Ban kiểm soát, bổ nhiệm Tổng giám đốc (Điều 51):
– Nên quy định thật cụ thể và chặt chẽ tiêu chuẩn, điều kiện của các đối tượng này, thay vì thủ tục hành chính “xin – cho” không cần thiết là phải được NHNN chấp thuận trước khi bầu, bổ nhiệm.
– Đồng thời quy định NHNN được quyền đình chỉ, bãi miễn đối với các trường hợp vi phạm.
11. Về trường hợp không được mua cổ phần ưu đãi (điểm c, khoản 3, Điều 52 – Các loại cổ phần, cổ đông):
– Quy định “các chức danh quản lý, điều hành khác của TCTD không được mua cổ phần ưu đãi cổ tức do chính TCTD phát hành”.
– Trong trường hợp này không rõ ai là người thuộc các chức danh quản lý, điều hành khác, vì Luật chỉ định nghĩa chức danh “Người quản lý”.
12. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông (Điều 59 – Đại hội đồng cổ đông):
– Cần tách thành 2 điều: Điều thứ nhất là ”Đại hội đồng cổ đông” gồm khoản 1 định nghĩa, khoản 2 quy định về điều kiện tiến hành họp, khoản 3 và 4 về thủ tục thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Điều thứ hai là ”Nhiệm vụ và quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông”, gồm 19 vấn đề mà trong Dự thảo đang để trong khoản 2;
– Việc này giúp cho điều Luật rõ ràng, đơn giản, tránh dài dòng, phức tạp và thuận tiện cho việc viện dẫn ngay trong Dự luật (viện dẫn 4 lần tới các điểm tại khoản này) cũng như áp dụng trên thực tế. Đồng thời như thế mới và tương xứng với việc Dự luật đã thiết kế 1 điều riêng về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT, 1 điều riêng về nhiệm vụ, quyền hạn Ban Kiểm soát.
13. Về thẩm quyền quyết định lựa chọn tổ chức kiếm toán độc lập (điểm n, khoản 3, Điều 59 – Đại hội đồng cổ đông):
– Nghị định 49/2000/NĐ-CP giao cho HĐQT. Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16-7-2009 của Chính phủ về Tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại sắp có hiệu lực cũng giao cho HĐQT lựa chọn tổ chức kiểm toán độc lập. Chúng tôi đã góp ý giao cho HĐQT tại Dự thảo 4, nhưng Dự thảo 5 lại vẫn để thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông;
– Đề nghị giao thẩm quyền này cho HĐQT, vì việc lựa chọn phải thực hiện vào cuối năm tài chính, trong khi cuộc họp thường kỳ Đại hội đồng cổ đông lại vào đầu năm. Trên thực tế Đại hội đồng cổ đông có lựa chọn thì cũng chỉ thông qua một danh sách tổ chức kiểm toán chung chung từ đầu năm hoặc lại buộc phải uỷ quyền cho HĐQT.
14. Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT (Điều 63):
– Khoản 11 quy định HĐQT có trách nhiệm “Ban hành các Quy định nội bộ liên quan đến tổ chức, quản trị và hoạt động của tổ chức tín dụng phù hợp với các quy định của pháp luật và của Luật này, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Ban kiểm soát hoặc của Đại Hội đồng cổ đông.”
– Cần xem lại quy định này, vì mỗi ngân hàng có hàng trăm quy định về tổ chức và hoạt động. Quy định như thế này thì sẽ được hiểu rằng Tổng giám đốc sẽ không được ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về nghiệp vụ để phục vụ cho điều hành công việc hằng ngày. Trong khi đó lại có nhiều điều khoản quy định Tổng Giám đốc được ban hành “các quy chế, quy định nội bộ” (Điều khoản 49.5). Ngoài ra Dự thảo quy định rất không thống nhất về loại hình và thẩm quyền ban hành quy chế, quy định nội bộ. Chẳng hạn Điều 63 nói trên thì HĐQT ban hành Quy định, đến Điều 65 thì lại là Quy chế.
15. Về phạm vi được phép hoạt động (khoản 2, Điều 90):
– Dự luật quy định: “TCTD không được phép tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác quy định trong Giấy phép do NHNN cấp cho TCTD”. Như vậy, TCTD chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép, hay nói cách khác, hoạt động của các TCTD phải bám sát từng chữ ghi trong giấy phép (kể cả giấy phép “con”). Đây là quy định quá khắt khe, sẽ nảy sinh nhiều vướng mắc bất hợp lý. Quy định này sẽ làm cho nội dung trong giấy phép vừa thừa, vừa thiếu và cứ phải thay đổi liên tục mà chưa chắc đã chỉ ra được hoạt động cụ thể nào được phép. Ví dụ giấy phép của nhiều ngân hàng hiện nay ghi: “Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế theo quy định của pháp luật”, thì cũng chưa thể biết là TCTD đó đã được hay chưa được phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế;
– Đồng ý là TCTD không được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm như đối với các doanh nghiệp thông thường khác. Nhưng đồng thời cũng không thể chấp nhận quy định: TCTD chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép như đối với NHNN và các cơ quan nhà nước. Quy định quá cứng này sẽ nảy sinh nhiều vướng mắc, nhất là sau khi Việt Nam hoàn toàn phát triển theo kinh tế thị trường. Khó có thể đồng tình với lý lẽ: Không thể cho phép các TCTD được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, vì không thể đưa ra được hết những điều cấm, vì nghiệp vụ ngân hàng quá nhiều và thay đổi liên tục. Như vậy thì cũng đồng nghĩa với việc sẽ không thế ghi trong Giấy phép đầy đủ, cụ thể, chi tiết các hoạt động của TCTD. Và cơ quan quản lý sẽ tất bật, mệt mỏi với việc sửa đổi, bổ sung Giấy phép để giải quyết những việc sự vụ theo đòi hỏi kinh doanh hằng ngày của hàng trăm TCTD. Và tất nhiên là khó tránh khỏi cơ chế xin cho không cần thiết trên thực tế. Chưa nói đến quy định trên, chỉ với quy định hiện hành thì cũng đã có nhiều bất cập về Giấy phép. Ví dụ:
+ Từ năm 2006, Luật các Công cụ chuyển nhượng đã thay thế khái niệm “thương phiếu” trong Luật các TCTD bằng “hối phiếu”, nhưng đến nay NHNN khi cấp Giấy phép cho các TCTD, NHNN vẫn ghi “chiết khấu thương phiếu” theo Luật các TCTD;
+ Giấy phép đã cấp cho các ngân hàng có dịch vụ cầm đồ (theo quy định của Luật các TCTD hiện hành), nhưng Luật mới đã bỏ khái niệm này, vậy thì các ngân hàng được cấp phép sau này sẽ không được làm dịch vụ cầm đồ hay sẽ được hiểu suy diễn là làm theo hình thức hoạt động khác?
– Do vậy, cần đưa ra một giải pháp mới, không quy định TCTD được làm tất cả hay chỉ được làm những gì đã được ghi trong Giấy phép, mà cần quy định theo hướng: TCTD được thực hiện các hoạt động kinh doanh đã được pháp luật cho phép hoặc không cấm và phải được sự cho phép của NHNN trong trường hợp có quy định của pháp luật. Theo đó, nội dung Giấy phép cũng không nên đưa cụ thể tất cả các nội dung được phép hoạt động như hiện nay (vừa thừa, vừa thiếu), mà chỉ nêu ra các đề mục lớn ví dụ như: “Hoạt động ngân hàng”, “thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật”. Còn hoạt động ngân hàng cụ thể như thế nào và được làm những gì, thì đã có quy định của Luật các TCTD, các Nghị định, Thông tư, cũng như các Giấy phép “con”.
– Cần sửa lại điều này theo hướng, TCTD được tiến hành mọi hoạt động kinh doanh đã được NHNN cho phép nói chung (có thể là cho nhiều TCTD), thay vì phải ghi cụ thể trong từng giấy phép. Hoặc là NHNN công bố cụ thể danh mục các nghiệp vụ kèm theo các điều kiện cụ thể để thực hiện. TCTD căn cứ vào những điều kiện đó, nếu đáp ứng được thì chỉ cần đăng ký với NHNN, thậm chí chỉ cần báo cáo (thông báo) NHNN.
16. Về lãi suất huy động và cho vay (Điều 91):
– Dự thảo quy định: TCTD được quyền ấn định lãi suất và “có quyền thỏa thuận về lãi suất”. Quy định như vậy vẫn không thể bứt được ra khỏi việc khống chế lãi suất không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định tại Điều 476 của Bộ luật Dân sự;
– Đề nghị quy định rõ hơn, không bị giới hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 (Trong trường hợp cần thiết, để bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD để thoát khỏi trần lãi suất trên). Về yêu cầu chung, cần tiếp tục sửa trần lãi suất nói trên để tránh vướng mắc trong hoạt động của TCTD nói riêng cũng như đối với mọi quan hệ kinh tế, dân sự nói chung;
– Cùng với Luật NHNN, cần xác định rõ Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn, để tránh đặt thêm một loại lãi suất không có căn cứ xác đáng, không phù hợp với thị trường, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các bên liên quan.
17. Về thu nợ trước hạn (Điều 95 – Chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ, miễn, giảm lãi suất):
– Đây là một vấn đề rất quan trọng bắt đầu vướng mắc trên thực tế, dẫn đến nguy cơ các TCTD không vì khoản 3, Điều 473 của Bộ luật Dân sự năm 2005 về “Nghĩa vụ của bên cho vay” quy định: Bên cho vay: “Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 478 của Bộ luật này.” Mà Điều 478 về “Thực hiện hợp đồng vay có kỳ hạn” chỉ loại trừ trường hợp “bên cho vay chỉ được đòi lại tài sản trước kỳ hạn, nếu được bên vay đồng ý” đối với loại hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi. Theo những quy định này, khi khách hàng chậm trả một kỳ hạn nợ hoặc có những vi phạm khác, thì TCTD sẽ không thực hiện được việc:
+ Chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn;
+ Thu hồi toàn bộ nợ vay;
+ Xử lý tải sản bảo đảm để thu hồi nợ.
– Khoản 1, Điều 95, Dự thảo quy định: ”TCTD có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng”. Khoản 2 Điều này quy định: ”Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì TCTD có quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm và các quy định khác có liên quan của pháp luật.” Như vậy, không đủ cơ sở pháp lý để làm khác với quy định trên của Bộ luật Dân sự.
– Vì vậy đề nghị Dự luật quy định rõ về các trường hợp và các khoản nợ được thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn và xử lý tài sản bảo đảm. Đây là loại đặc thù khác biệt với cho vay dân sự, nếu không quy định rõ thì sẽ vướng mắc lớn.
18. Về lưu giữ hồ sơ tín dụng (điểm c, khoản 1, Điều 96):
– Thực tế có thể do nhiều cấp tham gia quyết định cấp tín dụng. Nếu do Hội đồng tín dụng tại Hội sở chỉnh của TCTD quyết định, thì có thể không gửi Biên bản, mà chỉ gửi bản trích sao biên bản hoặc văn bản thông báo phê duyệt cho chi nhánh để lưu hồ sơ tín dụng (vì về nguyên tắc, Biên bản phải phản ánh đầy đủ ý kiến khác nhau, trong đó cỏ thể có những nội dung không phù hợp, không cần thiết chuyển cho chi nhánh);
– Vì vậy, nên thay quy định lưu hồ sơ “trong trường hợp quyết định tập thể, phải có biên bản, ghi rõ quyết định được thông qua”, bằng quy định: Trường hợp quyết định tập thể, phải có biên bản, ghi rõ quyết định được thông qua và được lưu giữ trong bộ hồ sơ tín dụng hoặc lưu riêng.
19. Về việc cấm ngân hàng thương mại trực tiếp mua bán cổ phiếu (Điều 107):
– Điểm b, khoản 2 của Điều 107, quy định ngân hàng thương mại chỉ được mua bán cổ phiếu thông qua công ty con, công ty liên kết. Tuy nhiên nếu là việc góp vốn mua cổ phần để thành lập công ty hoặc khi tăng vốn điều lệ thì lại được trực tiếp thực hiện. Việc này cũng là hoạt động mua cổ phiếu và đã được phép mua thì khi cần thiết cũng sẽ đương nhiên được bán;
– Do vậy cần xem lại, quy định theo hướng hạn chế chứ không cấm toàn bộ việc mua bán cổ phiếu;
– Ngoài ra, Điều khoản 107.1.e quy định ngân hàng thương mại được trực tiếp “mua bán trái phiếu Chỉnh phủ”, mà không nhắc đến trái phiếu doanh nghiệp. Như vậy không hiểu là được hay không được mua bán trái phiếu doanh nghiệp.
20. Về việc cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu (khoản 1, Điều 126 – Những trường hợp không được cấp tín dụng):
– Theo giải thích hiện nay, khái niệm cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu rất rộng, nên cần phải xem lại. Ví dụ cho vay cầm cố bằng Thẻ tiết kiệm để mua cổ phiếu hay cho vay thanh toán trước tiền bán cổ phiếu đã khớp lệnh trên Sở Giao dịch chứng khoán, thì rủi ro gần như bằng không và cũng không tác động xấu đến thị trường, thì không nhất thiết phải cấm triệt để. Chẳng hạn cho vay CBNV để cổ phần hoá, cho vay để góp vốn thành lập doanh nghiệp, đặc biệt là có bảo đảm bằng tài sản khác, thì không nên cấm. Ngoài ra, khoản này còn mâu thuẫn với khoản 6 quy định được cho vay để góp vốn vào TCTD khác, chỉ trừ trường hợp “trên cơ sở nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD được góp vốn”.
– Do vậy, Dự thảo chỉ nên đặt ra nguyên tắc giới hạn hay giao quyền “cấm hay không cấm” cho NHNN thay vì cấm toàn bộ hoạt động cho vay này;
21. Về giới hạn bị hạn chế cấp tín dụng (Điều 127):
– Cần quy định rõ khái niệm tại điểm d, khoản 1 về “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” tránh cách hiểu khác nhau tại đã đeo đẳng hơn chục năm nay (đang được quy định trong Luật các TCTD hiện hành);
– Khoản 2 quy định Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với tất cả 5/6 đối tượng tại khoản 1 không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD. Nhưng khoản 4 lại quy định Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với 1/6 đối tượng tại khoản 1 lại được phép lên đến 10% vốn tự có của TCTD;
– Đề nghị không tách riêng tỷ lệ giới hạn thành hai nhóm và đặc biệt là cần tăng tỷ lệ giới hạn đối với cả 6 đối tượng này từ 5 lên 20% vốn tự có.
22. Về giới hạn góp vốn, mua cổ phần (Điều 129):
– Nên nâng “Mức vốn góp, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại và các công ty con của ngân hàng thương mại đó vào một doanh nghiệp” từ 11% lên 20%, đồng thời giới hạn thêm tỷ lệ không quá 11% so với vốn điều lệ của ngân hàng (bên cạnh tổng mức góp vốn, mua cổ phần 40%).
23. Về thứ tự ưu tiên trả nợ khoản vay đặc biệt (khoản 3, Điều 151):
– Cần bổ sung vào cuối câu “Khoản vay đặc biệt này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác của TCTD” đoạn ”kể cả nợ có tài sản bảo đảm”, để tránh tình trạng xung đột với quy định về ưu tiên thanh toán nợ có bảo đảm của Bộ luật Dân sự.
24. Về thời hạn xử lý vướng mắc (Điều 162):
– Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16-7-2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại quy định thời hạn để xử lý các trường hợp vi phạm quy định mới, như về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần là 2 năm, tức là 15-9-2011 phải giảm xuống. Luật này dự kiến có hiệu lực từ năm 2011 và lại cho phép thời hạn 2 năm tiếp theo để xử lý. Riêng về tỷ lệ sở hữu vốn cồ phần thì lại giao cho “NHNN hướng dẫn cụ thể thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với TCTD”
– Như vậy sẽ hiểu là 2 năm nữa hay 4 năm nữa hay trong thời hạn nào, các ngân hàng cổ phần phải giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần xuống theo đúng với quy định của Luật? Đây là những vấn đề rất lớn, ảnh hưởng đến vận mệnh của một số ngân hàng cổ phần, nên cần xác định rõ theo hướng bảo đảm thời hạn xử lý một cách thật hợp lý.
25. Về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành (Điều 164):
– Quy định thẩm quyền cụ thể hoá Luật quá rộng: ”Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng dẫn… những nội dung cần thiết khác trong Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước”.
26. Về thủ tục gửi thông báo mời họp Đại hội đồng cổ đông (không quy định):
– Theo quy định tại Điều 100 của Luật Doanh nghiệp, thì bắt buộc phải gửi thư mời họp trực tiếp đến tất cả các cổ đông (kèm theo đầy đủ tài liệu). Điều này gây khó khăn, tốn kém lớn cho các TCTD có số lượng lên đến hàng vạn cổ đông. Vì vậy, nên có quy định chỉ bắt buộc phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên Website của TCTD và gửi trực tiếp cho một số cổ đông nhất định (ví dụ cổ đông sở hữu từ 1% số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên), vì đã được bảo đảm bằng quy định tỷ lệ số cổ phần tối thiểu để tiến hành cuộc họp.
III/ VỀ CÂU CHỮ, TỪ NGỮ:
1. Về giải thích từ ngữ (Điều 4):
– Những từ ngữ cần giải thích trong Dự luật, ngoài lý do chuyên ngành khó hiểu, cần một sự thống nhất, thì điều bắt buộc là phải sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại. Do vậy, những từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần (ngoài lần giải thích) hoặc xuất hiện vài lần nhưng chỉ tại một điều luật, thì việc định nghĩa tại một điều chung là không hợp lý, mà chỉ cần định nghĩa ngay tại điều khoản mà nó xuất hiện. Ví dụ các trường hợp sau:
+ Thuật ngữ “Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” (khoản 15), chỉ xuất hiện thêm 1 lần tại khoản 11 của Điều 4 (chính Điều giải thích từ ngữ);
+ Thuật ngữ “Phát hành giấy tờ có giá” (khoản 16), ngoài lần xuất hiện tại khoản 12 của chính Điều giải thích, thì chỉ còn được nhắc đến tại Điều 92 (Phát hành giấy tờ có giá của TCTD);
+ Thuật ngữ “Môi giới tiền tệ” (khoản 23), chỉ xuất hiện thêm 1 lần tại điểm a, khoản 1, Điều 107 (Các hoạt động kinh doanh khác);
+ Thuật ngữ “Góp vốn, mua cổ phần của TCTD” (khoản 26), sau đó chỉ được nhắc đến 1 lần tại khoản 2, Điều 135 (Góp vốn, mua cổ phần giữa các công ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát);
+ Thuật ngữ “Các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp” (khoản 27), chỉ xuất hiện 1 lần nữa tại khoản 4, Điều 130 (Tỷ lệ bảo đảm an toàn) (nhưng có thêm chữ “các” trước chữ “doanh nghiệp”. Còn một số điều khác thì chỉ sử dụng một phần của cụm từ đã được định nghĩa;
+ Thuật ngữ “Sở hữu gián tiếp” (khoản 29), chỉ dùng cho chính điều về định nghĩa, không được nhắc lại ở bất cứ điều nào khác.
– Nếu như định nghĩa các từ ngữ trên, thì không có lý gì không giải nghĩa các từ, cụm từ ”phương tiện thanh toán” (khoản 15, Điều 4; điểm a, khoản 4, Điều 98 – Hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại).”công ty kiểm soát” (được nhắc đến 32 lần); ”thanh khoản” (được sử dụng 2 lần tại điểm d, khoản 2, Điều 93 – Quy định nội bộ); ”cam kết ngoại bảng” (điểm b, khoản 1, Điều 130 – Tỷ lệ bảo đảm an toàn).
2. Giải thích cụm từ này nhưng lại sử dụng cụm từ khác (Điều 4):
– Định nghĩa thuật ngữ “Góp vốn, mua cổ phần của TCTD” (khoản 26), nhưng sau đó lại chỉ sử dụng cụm từ “Góp vốn, mua cổ phần”. Vì vậy cần định nghĩa cụm từ “Góp vốn, mua cổ phần” thay vì cả cụm từ “Góp vốn, mua cổ phần của TCTD”;
– Định nghĩa thuật ngữ “Sở hữu gián tiếp” (khoản 29), chỉ dùng cho chính điều về định nghĩa, không được nhắc lại ở bất cứ điều nào khác. Trong khi đó Điều 50 thì lại nhắc đến cụm từ “gián tiếp sở hữu”.
3. Sử dụng từ ngữ thiếu chính xác:
– Về quy định một số nghiệp vụ được thực hiện “theo quy định của NHNN”(khoản 14 và 15, Điều 4 – Giải thích từ ngữ): Quy định này thiếu chính xác, vì hiện nay một số nội dung đã có quy định của Luật hay Nghị định, như Luật các công cụ chuyển nhượng quy định về chiết khấu hối phiếu, hay đã có Nghị định của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán,….;
– Về yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng điện tử (Điều 133): Quy định trách nhiệm của TCTD là “phải thiết lập hệ thống nhận dạng, giám sát và kiểm soát các rủi ro, thực hiện đảm bảo an toàn và bảo mật trong hoạt động ngân hàng điện tử theo quy định của Chính phủ.” Sẽ trở lên bất hợp lý nếu sau này có Luật Giám sát tài chính.
– Cần thay cụm từ “Tổng giám đốc (Giám đốc)” bằng cụm từ “Tổng giám đốc hoặc Giám đốc” (thay ngoặc đơn bằng chữ hoặc) như Luật Doanh nghiệp để bảo đảm sự rõ ràng, chính xác;
– Cần sửa cụm từ “quy định của NHNN” (xuất hiện 38 lần) thành ”quy định của Thống đốc NHNN” và sửa cụm từ ”NHNN quy định” (xuất hiện 25 lần) thành ”Thống đốc NHNN quy định” cho cho đúng với thẩm quyền theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
4. Về sử dụng các từ ”thời hạn”, ”thời gian” và ”trong vòng”:
– Không thống nhất trong việc sử dụng 2 từ này. Ngoài các điều 22, 26, 29, 31, 36, 43, 44, 45, 52, 53, 54, 56, 58, 59, 63, 77, 84, 95, 96, 113, 132, 141, 143, 146, 147, 148, 162, sử dụng từ ”thời hạn”, các điều khoản dưới đây phải thay từ ”thời gian” và ”vòng” bằng từ ”thời hạn” thì mới chính xác và bảo đảm sự thống nhất với các điều khoản khác:
+ Khoản 16, Điều 4 (Giải thích từ ngữ): ”Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”;
+ Điểm c, khoản 4, Điều 29 (Những thay đổi phải được NHNN chấp thuận): ”Công bố nội dung thay đổi quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều này trong vòng 7 làm việc…”;
+ Khoản 3, Điều 31 (Điều lệ): ”Điều lệ của TCTD và mọi sửa đổi, bổ sung Điều lệ của TCTD phải được đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước trong vòng 15 ngày kể từ ngày được thông qua.”;
+ Khoản 2, Điều 35 (Đương nhiên mất tư cách): ”HĐQT… phải có văn bản báo cáo… gửi NHNN trong vòng 05 ngày làm việc…”;
+ Khoản 3, Điều 42 (Kiểm toán độc lập): ”Trong vòng 30 ngày kể từ ngày quyết định chọn tổ chức kiểm toán độc lập,…”;
+ Khoản 3, Điều 51 (Chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên HĐQT, HĐTV, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD): ”TCTD phải thông báo cho NHNN danh sách những người được bầu, bổ nhiệm các chức danh quy định tại khoản 1 Điều này trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày bầu, bổ nhiệm.”;
+ Khoản 5, Điều 55 (Tỷ lệ sở hữu cổ phần): ”Trong vòng 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động,…”;
+ Điều 61 (Báo cáo kết quả họp Đại hội đồng cổ đông): ”Trong vòng 15 ngày kể từ ngày bế mạc cuộc họp, tất cả các quyết định được Đại hội đồng cổ đông thông qua phải được gửi đến NHNN.”;
+ Khoản 2, Điều 77 (Điều lệ): ”Điều lệ và mọi sửa đổi, bổ sung Điều lệ của TCTD là hợp tác xã phải được đăng ký tại NHNN trong vòng 15 ngày kể từ ngày được thông qua.”;
+ Khoản 6, Điều 103 (Góp vốn, mua cổ phần): ”Trong trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ, ngân hàng thương mại phải bán số cổ phiếu này trong vòng 06 tháng kể từ ngày xử lý tài sản bảo đảm là cổ phiếu.”;
+ Khoản 1, Điều 142 (Báo cáo tài chính của công ty kiểm soát): ”Trong vòng 90 ngày kể từ thời điểm kết thúc năm tài chính, ngoài báo cáo và tài liệu theo quy định của pháp luật, công ty kiểm soát phải lập và gửi cho NHNN các báo cáo sau đây”;
+ Khoản 8, Điều 142 (Báo cáo tài chính của công ty kiểm soát): ”Trong vòng 3 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính, công ty kiểm soát phải lập và gửi cho NHNN báo cáo tổng hợp…”;
+ Khoản 2, Điều 162 (Quy định chuyển tiếp đối với tổ chức đang hoạt động): ”Trong thời gian tối đa 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành…”.
5. Về sử dụng 2 từ “quy định” và “quy chế”:
– Không thống nhất trong việc sử dụng 2 từ này như dưới đây, dẫn đến không thể phân biệt được thẩm quyền ban hành, tính chất của văn bản và yêu cầu của Luật. Đề nghị thống nhất sử dụng cụm từ “quy định nội bộ” (không viết hoa chữ “quy định”) hoặc HĐQT, Ban kiểm soát ban hành Quy chế, Tổng Giám đốc ban hành quy định:
+ Khoản 1, Điều 11 (Trách nhiệm phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố) quy định TCTD phải xây dựng ”các quy định nội bộ” về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật;
+ Điểm e, khoản 2, Điều 26 (Điều kiện khai trương hoạt động) quy định: TCTD phải có “các quy chế quản lý nội bộ về tổ chức, hoạt động…”, “quy chế nội bộ về quản lý rủi ro; quy chế về quản lý mạng lưới”;
+ Điểm c, khoản 1, Điều 40 (Hệ thống kiểm soát nội bộ) quy định: Phải tuân thủ “các quy chế, quy trình, quy định nội bộ”;
+ Khoản 2, Điều 40 (Hệ thống kiểm soát nội bộ) định nghĩa: Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ,…”;
+ Khoản 1, Điều 44 (Ban kiểm soát và cơ cấu Ban kiểm soát) quy định: Ban kiểm soát là cơ quan có trách nhiệm kiểm soát, đánh giá việc chấp hành ”các quy định nội bộ, các quy định của pháp luật, Điều lệ…”;
+ Khoản 2, Điều 45 (Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban kiểm soát) quy định một trong những trách nhiệm của Ban kiểm soát là ban hành ”Quy định nội bộ của Ban kiểm soát”;
+ Khoản 5, Điều 49 (Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng giám đốc (Giám đốc) quy định một trong những thẩm quyền của Tổng giám đốc là ban hành ”các quy chế, quy định nội bộ”;
+ Điểm d, khoản 1, Điều 54 (Nghĩa vụ của cổ đông) yêu cầu cổ đông tuân thủ Điều lệ và ”các quy chế quản lý nội bộ TCTD”;
+ Khoản 11, Điều 63 (Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT) quy định HĐQT ban hành ”các Quy định nội bộ liên quan đến tổ chức, quản trị và hoạt động của TCTD”;
+ Khoản 1, Điều 65 (Nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên HĐQT) yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của một thành viên HĐQT theo đúng ”quy chế nội bộ của HĐQT…”;
+ Điểm l, khoản 2, Điều 67 (Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐTV) quy định HĐTV ban hành ”các quy định nội bộ liên quan tới tổ chức, quản trị và hoạt động TCTD”;
+ Khoản 1, Điều 69 (Nhiệm vụ và quyền hạn của thành viên HĐTV) yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của một thành viên HĐTV theo đúng ”quy chế nội bộ của HĐTV…”;
+ Điểm c, khoản 1, Điều 72 (HĐTV) quy định HĐTV của TCTD TNHH 2 thành viên trở lên ban hành ”Quy định nội bộ của HĐTV và các quy định nội bộ liên quan đến tổ chức, quản trị và hoạt động TCTD”;
+ Điều 93 (Quy định nội bộ) quy định các TCTD phải xây dựng và ban hành ”các quy định nội bộ đối với mọi hoạt động nghiệp vụ của TCTD”, trong đó có ”Quy định cấp tín dụng” (không thể có một quy định chung, mà phải là nhiều quy định về cho vay, bảo lãnh, chiết khấu,…); ”Quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro”; ”Quy định về đánh giá chất lượng tài sản Có và tuân thủ tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu”; ”Quy định về quản lý thanh khoản”; ”Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ”; ”Quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ”; ”Quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của TCTD”; ”Quy định về quy trình, thủ tục phù hợp, bao gồm cả nguyên tắc “nhận biết khách hàng” để bảo đảm ngăn ngừa việc TCTD bị lạm dụng cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác” và TCTD phải gửi cho NHNN ”các quy định nội bộ” nói trên;
+ Khoản 4, Điều 95 (Chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ, điều chỉnh lãi suất) quy định TCTD có quyền quyết định miễn, giảm lãi suất, phí cho khách hàng theo ”quy định nội bộ của TCTD”.
6. Viết hoa không thống nhất:
– Không thống nhất cách viết hoa một số từ, cụm từ giữa Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát với Tổng Giám đốc (viết hoa chữ Giám nhưng không viết hoa chữ quản, thành, kiểm);
– Không thống nhất trong việc sử dụng cụm trừ ”hoạt động TCTD” (xuất hiện 2 lần) và ”hoạt động của TCTD” (xuất hiện 36 lần).
IV/ VỀ KỸ THUẬT SOẠN THẢO:
- Về tên các điều luật (các Điều 49, 63, 82, 86,…):
– Điều 49 và 86 đều có chung một tên điều là ”Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng giám đốc (Giám đốc)”. Điều 63 và Điều 82 đều có tên gọi giống nhau là ”Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT”;
– Tên các điều luật cần tránh trùng lặp nhau và tránh trùng lặp với tên mục, chương (trừ trường hợp chương, mục chỉ có 1 điều). Bên cạnh đó, Điều 62 đã xác định tên cụ thể ”HĐQT của TCTD là công ty cổ phần” thì tên Điều 81 không thể gọi tên điều là ”Hội đồng quản trị”, mà phải tương ứng là ”HĐQT của TCTD là hợp tác xã”.
2. Về bố cục của các điều luật:
– Cần bảo đảm tính lô gíc và kỹ thuật soạn thảo văn bản, thống nhất về kết cấu của các điều, khoản; tránh tình trạng xuất hiện các đoạn văn không thuộc bất cứ bố cục nào của điều luật: Không thuộc về tên điều; không thuộc khoản 1, 2, 3,…; không thuộc điểm a, b, c,… (trừ điều luật không phân thành khoản, điểm). Đó là các đoạn đầu tiên của các điều 2, 4, 10, 11, 53, 57, 58, 67, 98, 105, 112, 116, 118, 119, 122, 125, 132, 134, 150 và 154.
– Xin đề xuất 3 cách khắc phục như sau:
+ Cách thứ nhất: Bỏ đoạn văn dẫn dắt, giữ nguyên các nội dung khác. Ví dụ: Điều 4 ”Giải thích từ ngữ” cần bỏ câu ”Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:” mà không ảnh hưởng gì đến cách hiểu, vì đó là điều hiển nhiên. Không những thế, những thuật ngữ này còn được hiểu trong toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trừ trường hợp có quy định riêng khác.
+ Cách thứ hai: Bỏ đoạn văn dẫn dắt đồng thời đổi tên điều cho phù hợp. Ví dụ Điều 53 có tên là ”Quyền của cổ đông” thì ngay dưới đó chỉ cần quy định thẳng các khoản nói về quyền của cổ đông chứ không cần chèn thêm một câu lửng lơ ”Cổ đông phổ thông có các quyền sau đây:”; tuy nhiên cần đổi tên điều là ”Quyền của cổ đông phổ thông”. Tương tự tại Điều 10, cần bỏ đoạn dẫn dắt ”TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm:” và đổi tên Điều từ ”Bảo vệ quyền lợi của khách hàng” thành ”Trách nhiệm của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng”;
+ Cách thứ ba: Chuyển đoạn văn dẫn dắt thành một khoản chung, các khoản còn lại sẽ trở thành các khoản quy định cụ thể. Ví dụ: Điều 57 (Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông hoặc theo quyết định của TCTD), cần chuyển đoạn dẫn dắt “TCTD chỉ được quyền mua lại cổ phần của cổ đông trong các trường hợp:” thành khoản 1 như sau “TCTD chỉ được quyền mua lại cổ phần của cổ đông trong các trường hợp quy định tại khoản 2 và 3 của Điều này”; đồng thời sửa lại các khoản này (cũng có thể nhập khoản 2 và 3 thành 1 khoản, trong đó có 2 điểm). Tương tự đối với đoạn dẫn dắt tại Điều 67 (Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐTV), cần được chuyển thành khoản 1 định nghĩa về HĐTV, các nội dung còn lại là khoản 2 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn (hoặc khoản 2 là nhiệm vụ, quyền hạn chung, khoản 3 là nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể). Hoặc là câu dẫn dắt tại Điều 132 (Kinh doanh bất động sản), cần được chuyển thành khoản 1 quy định chung về việc không được kinh doanh bất động sản và trừ các trường hợp cụ thể được nêu tại khoản 2 (gồm 3 điểm là các khoản 1, 2 và 3 trong Dự thảo).
V/ MỘT SỐ NỘI DUNG GÓP Ý ĐÃ ĐƯỢC TIẾP THU:
1. Một số nội dung đã được tiếp thu vào Dự thảo 5:
1.1. Về quy định một số nghiệp vụ được thực hiện “theo quy định của NHNN” (khoản 13 và 14, Điều 4 – Giải thích từ ngữ): Quy định này thiếu chính xác, vì hiện nay một số nội dung đã có quy định của Luật hay Nghị định, như Luật các công cụ chuyển nhượng quy định về chiết khấu hối phiếu, hay đã có Nghị định của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán,….
1.2. Định nghĩa thuật ngữ “Bảo lãnh ngân hàng” (khoản 19, Điều 4), nhưng sau đó lại sử dụng thuật ngữ rút gọn là “bảo lãnh” (như điểm c, khoản 3, Điều 98 – Hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại; điểm e, khoản 1, Điều 108 – Hoạt động kinh doanh của công ty tài chính).
1.3. Về nhiệm kỳ của HĐQT, HĐTV (khoản 2, Điều 43 – HĐQT, HĐTV và cơ cấu HĐQT, HĐTV): Quy định “Nhiệm kỳ của HĐQT, HĐTV là 05 năm. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT, HĐTV theo nhiệm kỳ của HĐQT, HĐTV và không quá 05 năm” là quá cứng nhắc, cần xem xét thay đổi như sau:
– Quy định nhiệm kỳ 4 năm và cơ chế thay đổi 1/2 số thành viên HĐQT giữa nhiệm kỳ để bảo đảm tính kế thừa và ổn định liên tục, tránh tại một thời điểm có thể dẫn đến tất cả số thành viên đều là mới, sẽ gây khó khăn cho việc quản trị ngân hàng. Tuy nhiên, việc bầu lại một nửa số thành viên theo phương thức bầu dồn phiếu sẽ dẫn đến việc người đại diện cho những cổ đông sở hữu một vài chục phần trăm cổ phần không có cơ hội trúng cử thành viên HĐQT, HĐTV;
– Quy định nhiệm kỳ không quá 5 năm, để cho các TCTD quyết định cụ thể trong Điều lệ và thay đổi linh hoạt trong thời hạn này. Việc này sẽ phù hợp với những trường hợp chưa định hình chuẩn về nhân sự quản trị TCTD.
1.4. Về việc phát hành giấy tờ có giá: Không biết TCTD có được phát hành trái phiếu thông thường như lâu nay vẫn làm hay không, vì Dự luật chỉ nhắc đến thẩm quyền thông qua việc phát hành trái phiếu chuyển đổi (Điều 59, Điều 63) và được “phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài theo quy định của NHNN” (khoản 2, Điều 98 – Hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại; Điều 92 – Phát hành giấy tờ có giá của TCTD). Trong khi Luật các TCTD hiện hành và Luật Doanh nghiệp quy định rõ về việc TCTD được phép phát hành trái phiếu.
1.5. Về thông qua phương án phát hành cổ phiếu (điểm i, khoản 2, Điều 59 – Đại hội đồng cổ đông): Quy định về một trong những quyền và nhiệm vụ của Đại hội đồng cổ đông là: “Thông qua phương án thay đổi mức vốn điều lệ; thông qua phương án phát hành cổ phiếu, bao gồm loại cổ phần và số lượng cổ phấn mới sẽ phát hành”. Tuy nhiên, Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp lại quy định việc “thay đổi mức vốn điều lệ” đối với công ty đại chúng (theo Dự luật thì các ngân hàng TMCP đều là công ty đại chúng) là hoạt động “chào bán chứng khoán”, ”chào bán cổ phần” và “phát hành chứng khoán” ra công chúng. Vì vậy, đề nghị sử dụng thuật ngữ thống nhất với Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán để tránh vướng mắc đã xảy ra trên thực tế do từ ngữ khác nhau. Ngoài ra việc “phát hành” trong quy định trên, phải là phát hành ”cổ phần” chứ không phải là “cổ phiếu”.
1.6. Về đề nghị triệu tập họp bất thường (khoản 3 và 4, Điều 65 – Nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên HĐQT): Quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên HĐQT là: ”Đề nghị Chủ tịch HĐQT triệu tập cuộc họp HĐQT bất thường theo quy đinh tại Luật này” và ”Đề nghị triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường theo quy định tại Luật này.” Tuy nhiên Dự luật không có quy định về các trường hợp triệu tập họp bất thường này của các thành viên HĐQT (điểm c, khoản 4, Điều 112 của Luật Doanh nghiệp quy định Chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp HĐQT khi có đề nghị của ít nhất 2 thành viên HĐQT).
1.7. Về hạn chế cấp tín dụng (khoản 1, Điều 127 – Hạn chế cấp tín dụng): Cần chuyển một trong những đối tượng bị hạn chế1.7. cấp tín dụng là Kế toán trưởng của TCTD tại điểm a sang điểm b hoặc tách ra thành một điểm riêng, vì không cùng nhóm với các đối tượng được nêu tại điểm a là “Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.
1.8. Không biết tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của TCTD là bao nhiêu (nội dung quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 130 – Tỷ lệ bảo đảm an toàn). Trong khi đó, điểm e, khoản 3, Điều 146 (Áp dụng kiểm soát đặc biệt) lại quy định một trong những trường hợp TCTD bị (được) kiểm soát đặc biệt là: “Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu do NHNN quy định trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu thấp hơn 4% trong thời hạn 6 tháng liên tục.”.
1.9. Quy định ngân hàng thương mại “phải” thành lập Công ty để hoạt động kinh doanh “quản lý tài sản bảo đảm” (Điều khoản 103.2.d), trong khi nếu không thành lập thì đương nhiên ngân hàng vẫn phải “quản lý tải sản bảo đảm”;
1.10. Không chính xác khi viết cụm từ “Tham dự và phát biểu trong Đại hội đồng cổ đông” (khoản 1, Điều 53 – Quyền của cổ đông); “triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường để họp” (Điều 60 – Họp Đại hội đồng cổ đông theo yêu cầu của NHNN); “Sau Đại hội đồng cổ đông đầu tiên…” (khoản 1, Điều 63 – Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT”. Cần sửa thành câu “Tham dự và phát biểu trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông” “triệu tập Đại hội đồng cổ đông để họp bất thường” và “Sau cuộc họp Đại hội đồng cổ đông đầu tiên”;
1.11. Không thống nhất khi viết thuật ngữ “bảo đảm” và “đảm bảo” (cần sử dụng thống nhất là “bảo đảm”);
1.12. Không thống nhất khi viết từ “hằng năm” và “hàng năm”. Cần viết chính xác là “hằng năm” (lặp đi lặp lại) như Luật Doanh nghiệp (tương tự là hằng ngày) (có 10 từ “hằng ngày” tại các điều khoản 39.3, 63.19, 67.2, 68.2, 70.2, 72.1, và 142.5, còn lại là 13 từ “hàng năm” và 6 từ “hàng ngày”);
1.13. Không thống nhất trong việc sử dụng cụm từ ”Điều lệ TCTD” (xuất hiện 42 lần) và ”Điều lệ của TCTD” (xuất hiện 30 lần). Tuy nhiên vẫn chưa sửa hết.
1.14. Không thống nhất trong việc sử dụng cụm trừ ”hoạt động TCTD” (xuất hiện 2 lần) và ”hoạt động của TCTD” (xuất hiện 36 lần);
1.15. Không thống nhất trong việc sử dụng từ ”sau” và ”sau đây” ở nhiều điều khoản;
1.16. Không thống nhất cách viết hoa một số từ, cụm từ như: Hội đồng quản trị và Hội đồng Quản trị, Ban kiểm soát và Ban Kiểm soát, Người quản lý và người quản lý, Người điều hành và người điều hành, Tổng giám đốc và Tổng Giám đốc (xuất hiện 31 chữ Tổng giám đốc và 65 chữ Tổng Giám đốc), Giám đốc Chi nhánh và Giám đốc chi nhánh, quy chế nội bộ và Quy chế nội bộ, quy định nội bộ và Quy định nội bộ, 5 và 05,…. Khi đề cập đến các chức danh này đối với từng đối tượng (nhóm đối tượng) đã được xác định cụ thể, thì mới viết hoa chữ thứ hai, còn trong quy định của Luật là đề cập đến một cách chung chung, không xác định cụ thể, thì hoặc là chỉ viết hoa chữ đầu tiên hoặc là không viết hoa chữ nào.
1.17. Thuật ngữ “Hoạt động ngân hàng điện tử” (khoản 24, Điều 4), cũng nên định nghĩa tại Điều 97, là điều quy định riêng về hoạt động này. Sau đó khái niệm này cũng chỉ được nhắc đến 1 lần nữa tại Điều 133 (Yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng điện tử);
1.18. Định nghĩa thuật ngữ “Thành viên độc lập của HĐQT” (khoản 29), nhưng sau đó sử dụng cụm từ “Thành viên độc lập”. Vì vậy cần định nghĩa cụm từ “Thành viên độc lập” thay vì cả cụm từ “Thành viên độc lập của HĐQT”.
1.19. Về thực hiện quy định về bảo hiểm tiền gửi (khoản 1, Điều 10 – Bảo vệ quyền lợi của khách hàng): Quy định một trong những trách nhiệm của TCTD là “Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ” sẽ trở nên bất hợp lý sau khi có Luật Bảo hiểm tiền gửi (đang được soạn thảo);
1.20. Cần thay chữ “mở” bằng chữ “lập” tại Điều 1 (Phạm vi điều chỉnh), khoản 4, Điều 2 (Đối tượng áp dụng); khoản 10, Điều 4 (Giải thích từ ngữ); điểm i, khoản 2, Điều 20 (Điều kiện cấp Giấy phép); khoản 1, Điều 30 (Cơ cấu tổ chức mạng lưới); khoản 4, Điều 63 (Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị); khoản 2, Điều 158 (Nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN). Cụm từ “mở chi nhánh” là từ ngữ dân dã, không thống nhất với quy định lập Chi nhánh của Luật Doanh nghiệp (nhất là trong đăng ký kinh doanh). Nếu quy định là “mở” chi nhánh thì ngược với việc đó phải là “đóng” chi nhánh, nhưng trong Dự luật đang sử dụng cụm từ “chấm dứt hoạt động” của chi nhánh.
2. Một số nội dung đã được tiếp thu vào Dự thảo 4:
2.1. Về tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 53): Khoản 2 quy định, mỗi pháp nhân trong nước chỉ được sở hữu tối đa 10% vốn điều lệ, nhưng khoản 3 lại cho phép mỗi pháp nhân nước ngoài lại được sở hữu đến 20% vốn điều lệ của một TCTD, đã tạo ra sự phân biệt đối xử bất bình đẳng. Ngoài ra, hiện nay tại nhiều ngân hàng, một pháp nhân được sở hữu tối đa 40% (thậm chí có pháp nhân được phép sở hữu đến 52%), vốn điều lệ mà chỉ được phép chuyển đổi trong thời hạn 2 năm (Điều 162) là không khả thi, dễ gây ra sự biến động xấu cho hệ thống ngân hàng thương mại.
2.2. Về ban hành chính sách, quy định nội bộ (Điều 91 và một số điều khác): Không nên phân biệt hai loại văn bản mà TCTD phải ban hành là chính sách và quy định, vì quy định cũng là một loại chính sách và đã là chính sách bắt buộc, thì cần phải thể hiện dưới dạng văn bản quy định.
2.3. Về xét duyệt cấp tín dụng (Điều 92): Khoản 1 quy định “TCTD phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình, của người bảo đảm trước khi quyết định cấp tín dụng”. Viết như vậy sẽ bị hiểu là người bảo đảm có tài sản cầm cố, thế chấp cũng phải cung cấp “phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình”. Tương tự là quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 94, yêu cầu phải lưu giữ Báo cáo thực trạng tài chính của người bảo đảm, chỉ cần thiết đối với trường hợp bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh, hoàn toàn không cần thiết đối với người bảo đảm có tài sản ký quỹ, cầm cố, thế chấp.
2.4. Về miễn, giảm lãi suất, phí cho khách hàng (khoản 4, Điều 93): Chỉ nên quy định việc miễn giảm lãi do TCTD quyết định, mà không nên quy định cụ thể “theo chính sách, quy định nội bộ do HĐQT, Hội đồng thành viên ban hành”, để tạo quyền chủ động cho TCTD.
2.5. Về hạn chế kinh doanh bất động sản (Điều 105): Khoản 1 quy định: Ngân hàng thương mại không được kinh doanh bất động sản, trừ trường hợp “Mua, đầu tư, sở hữu bất động sản để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc cơ sở kho tàng phục vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.” Như vậy, thì trụ sở của ngân hàng còn dư một số phần diện tích sẽ không được phép cho thuê, vì đó cũng là hoạt động kinh doanh bất động sản theo Luật Kinh doanh bất động sản. Vì vậy, đề nghị cần mở rộng thêm các trường hợp được phép, chẳng hạn như được bán, cho thuê phần diện tích không sử dụng hết.
2.6. Về quy định không được cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán: (khoản 7, Điều 126): Cần đưa ra giới hạn cho vay thay vì cấm toàn bộ. Tiếp thu 1 phần, sửa đầu tư, kinh doanh chứng khoán thành đầu tư, kinh doanh cổ phiếu.
2.7. Không thống nhất giữa cụm từ “cổ đông là pháp nhân” và “cổ đông là tổ chức”. Cần sử dụng thống nhất thuật ngữ “pháp nhân” thay cho “tổ chức”;
Trân trọng tham gia!
—————————–
ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN
FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)
E-mail: duc.tt @anvilaw.com
Web: www.anvilaw.com
ĐT: 090.345.9070
[1] Khoản 1, Điều 8, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
[2] Ví dụ, Luật NHNN năm 1997 là một đạo luật quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của NHNN, thế mà vẫn những nội dung trước sau không thay đổi, nhưng năm 2009, lại có thể thành lập một cơ quan khác biệt cơ cấu tổ chức trước kia, đó là Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng có vị trí như một tổng cục, với 8 vụ cục trực thuộc. Hay cũng chỉ với những quy định như vậy, hôm nay NHNN có 63 chi nhánh ở các tỉnh thành phố, sau này lại chỉ còn 5-10 chi nhánh khu vực, tức là giải thích và áp dụng kiểu gì cũng được.