(ANVI) – Hội thảo “Thực tiễn thi hành một số chế định của Bộ luật Dân sự năm 2005 phục vụ công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân sự” – Bộ Tư pháp, Hà Nội 25-5-2012:
Chế định hợp đồng dân sự đã được quy định tại 250 điều trong tổng số 777 điều luật (từ điều 388 đến 593 và từ điều 693 đến 732), chiếm gần 1/3 số điều trong Bộ luật Dân sự. Điều này đã khẳng định chế định này có một vị trí rất quan trọng trong Bộ luật Dân sự nói riêng và hệ thống pháp luật về dân sự nói chung.
- Về các loại hợp đồng:
1.1. Các điều từ 428 đến 593 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định 13 loại hợp đồng dân sự thông dụng bao gồm:
– Hợp đồng gia công;
– Hợp đồng mua bán tài sản, trong đó có:
+ Hợp đồng mua bán tài sản nói chung;
+ Hợp đồng mua bán nhà ở;
+ Hợp đồng bán đấu giá.
– Hợp đồng thuê tài sản, trong đó có:
+ Hợp đồng thuê nhà khác;
+ Hợp đồng thuê tài sản khác;
+ Hợp đồng thuê khoán tài sản.
– Hợp đồng trao đổi tài sản;
– Hợp đồng vay tài sản, trong đó có họ, hụi, biêu, phường;
– Hợp đồng vận chuyển, trong đó có
+ Hợp đồng vận chuyển hành khách;
+ Hợp đồng vận chuyển tài sản;
– Hợp đồng uỷ quyền;
– Hứa thưởng và thi có giải.
– Ngoài ra, còn loại Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất được quy định tại một phần riêng của Bộ luật Dân sự.
1.2. Như vậy, còn rất nhiều quan hệ dân sự khác, với nhiều loại hợp đồng dân sự rất thông dụng, chưa được nhắc đến hoặc không được chỉ rõ trong Bộ luật Dân sự, cần xem xét bổ sung một số trong các loại hợp đồng dưới đây:
– Hợp đồng bảo vệ (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ);
– Hợp đồng cấp tín dụng (Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 chỉ nhắc đến tên hợp đồng, mà không quy định cụ thể), trong đó có:
+ Hợp đồng bao thanh toán (một dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản là các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả, có bảo lưu quyền truy đòi);
+ Hợp đồng bảo lãnh ngân hàng (dạng đặc biệt của hợp đồng bảo lãnh trong giao dịch bảo đảm);
+ Hợp đồng chiết khấu (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác, có kỳ hạn hoặc có bảo lưu quyền truy đòi);
+ Hợp đồng cho thuê tài chính (là sự kết hợp giữa hợp đồng thuê và mua bán tài sản);
+ Hợp đồng cho vay tiền (hợp đồng tín dụng) (dạng đặc biệt của hợp đồng vay tài sản);
– Hợp đồng chuyển giao công nghệ (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản);
– Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, cổ phiếu (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản), trong đó có;
+ Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần;
+ Hợp đồng mua bán cổ phần;
+ Hợp đồng mua bán cổ phiếu (nói chung);
+ Hợp đồng mua bán cổ phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán;
– Hợp đồng dịch vụ trong thương mại (các dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ trong dân sự), trong đó có:
+ Hợp đồng dịch vụ cho thuê hàng hoá;
+ Hợp đồng dịch vụ đại diện cho thương nhân;
+ Hợp đồng dịch vụ quá cảnh;
+ Hợp đồng dịch vụ quảng cáo;
+ Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá;
+ Hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ;
+ Hợp đồng dịch vụ tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại.
– Hợp đồng đại diện cho thương nhân (một dạng đặc biệt của hợp đồng uỷ quyền có thù lao);
– Hợp đồng đại lý (có những nội dung của các hợp đồng dịch vụ, mua bán và uỷ quyền);
– Hợp đồng đấu thầu (dạng đặc biệt của 2 loại hợp đồng dịch vụ hoặc mua bán tài sản);
– Hợp đồng khoán việc (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ);
– Hợp đồng lao động (về bản chất cần phải xác định là hợp đồng dân sự);
– Hợp đồng mua bán tài sản là hàng hoá (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản), trong đó có:
+ Hợp đồng mua bán tài sản, hàng hoá kỳ hạn – Repo (có phần giống như hợp đồng mua bán tài sản có điều kiện chuộc lại theo quy định tại Điều 46, Bộ luật Dân sự);
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá quyền chọn;
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá qua biên giới (xuất nhập khẩu);
+ Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa;
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá hoán đổi;
– Hợp đồng mua bán tài sản qua đấu giá (dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản);
– Hợp đồng nhận thầu (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ);
– Hợp đồng nhượng quyền thương mại (một dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản);
– Hợp đồng thuê mua tài sản (đồng thời vừa là hợp đồng thuê, vừa là hợp đồng mua tài sản);
– Hợp đồng uỷ thác hay ký thác (dạng đặc biệt, rộng hơn hợp đồng uỷ quyền);
– Hợp đồng xây dựng và các hợp đồng trong hoạt động xây dựng (dạng đặc biệt của hợp đồng dịch vụ).
1.3. Trong khi một số hợp đồng thông dụng dưới đây trong Bộ luật Dân sự thì lại được quy định trùng lặp tại các đạo luật khác, cần xem xét khả năng loại bỏ và chỉ để ở trong một đạo luật:
– Hợp đồng bảo hiểm (Luật Bảo hiểm);
– Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Luật Đất đai);
– Hợp đồng vận chuyển hàng hoá (Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng);
– Hợp đồng vận chuyển hành khách (Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng);
– Hợp đồng về nhà ở (mua bán, thuê nhà,…) (Luật Nhà ở);
1.4. Một giao dịch hợp đồng được điều chỉnh bởi nhiều đạo luật, dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột nhau, không biết áp dụng theo luật nào. Ví dụ:
– Về thời điểm chuyển quyền sở hữu: Luật Nhà ở năm 2005 quy định “Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở hoặc từ thời điểm mở thừa kế trong trường hợp nhận thừa kế nhà ở.” (khoản 5, Điều 93 về “Trình tự, thủ tục trong giao dịch về nhà ở”). Trong khi Bộ luật Dân sự lại quy định “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu” (khoản 1, Điều 168 về “Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản”). Mặc dù tiếp theo trong cùng câu văn này, đã quy định tiếp “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, nhưng trên thực tế, Toà án vẫn không chấp nhận quy định của Luật Nhà ở khác với Bộ luật Dân sự là quy định khác.
– Về phạt chậm thanh toán hợp đồng: Khoản 2, Điều 305 về “Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Trong khi đó, Điều 306 về “Quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán”, Luật Thương mại lại quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
- Về hình thức của hợp đồng:
2.1. Khoản 1, Điều 401 về “Hình thức hợp đồng dân sự” quy định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.” Nhưng chính Bộ luật Dân sự quy định, trong 7 biện pháp bảo đảm, ngoại trừ duy nhất biện pháp “ký cược” là không bắt buộc phải lập thành văn bản, còn lại các giao dịch bảo đảm đều phải lập thành văn bản (Điều 327 về “Hình thức cầm cố tài sản”; Điều 343 về “Hình thức thế chấp tài sản”; khoản 1, Điều 358 về “Đặt cọc”; Điều 360 về “Ký quỹ”; Điều 362 về “Hình thức bảo lãnh”; Điều 373 về “Hình thức bảo đảm bằng tín chấp” của Bộ luật Dân sự năm 2005). Quy định như vậy là không hợp lý, không cần thiết trong mọi trường hợp. Nếu hợp đồng chính không bắt buộc phải bằng văn bản, thì chẳng có lý do gì bắt hợp đồng phụ phải lập thành văn bản. Ví dụ, khi mua vài chai bia Hà Nội, thì thường là giao kết hợp đồng bằng lời nói và như vậy là hợp pháp. Tuy nhiên, người mua thường phải đặt cọc một số tiền để bảo đảm cho nghĩa vụ trả lại vỏ chai cho người bán. Nếu cứ theo đúng quy định của Bộ luật Dân sự, thì việc đặt cọc để trả vỏ chai sẽ phải lập thành văn bản!?[2]
2.2. Vì vậy, cần bỏ bớt việc bắt buộc giao dịch bảo đảm phải làm thành văn bản và cần quy định rõ việc bắt buộc theo các trường hợp giao dịch thay vì theo các biện pháp bảo đảm. Theo tôi, việc bắt buộc phải làm thành văn bản chỉ cần thiết đối với một số giao dịch dưới đây:
– Giao dịch ký quỹ (vì liên quan đến nghiệp vụ ngân hàng bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, giấy tờ);
– Giao dịch bắt buộc phải công chứng, chứng thực;
– Giao dịch đối với những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu (quyền sử dụng).
- Về hợp đồng vô hiệu:
3.1. Theo quy định tại Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự”, Điều 127 về “Giao dịch dân sự vô hiệu”, Điều 410 về “Hợp đồng dân sự vô hiệu”, thì giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng sẽ bị vô hiệu khi vi phạm và chỉ khi vi phạm vào một hoặc một số trong tổng số 4 trường hợp sau:
– Thứ nhất, người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự;
– Thứ hai, mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội;
– Thứ ba, người tham gia giao dịch không hoàn toàn tự nguyện;
– Thứ tư, giao dịch không đáp ứng được về hình thức, trong trường hợp pháp luật có quy định hình thức giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
3.2. Để làm rõ cho 4 trường hợp kể trên, Bộ luật đã có các quy định sau:
– Quy định tại Điều 130 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện”, làm rõ cho trường hợp thứ nhất;
– Quy định tại Điều 128 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội” và tại Điều 132 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa”, làm rõ cho trường hợp thứ hai;
– Quy định tại Điều 133 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình”, làm rõ cho trường hợp thứ ba;
– Quy định tại Điều 134 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”, làm rõ cho trường hợp thứ tư.
3.3. Tuy nhiên, còn một số quy định vô hiệu khác dưới đây, thì không phải hoặc là không rõ thuộc trường hợp nào trong số 4 trường hợp vô hiệu như đã kể trên:
– Quy định tại Điều 69 về “Quản lý tài sản của người được giám hộ”, với nội dung tại khoản 3: “Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.”;
– Quy định tại Điều 129 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo”;
– Quy định tại Điều 131 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn”;
– Quy định tại Điều 410 về “Hợp đồng dân sự vô hiệu” (hợp đồng phụ bị vô hiệu do sự vô hiệu của hợp đồng chính và hợp đồng chính bị vô hiệu do sự vô hiệu của hợp đồng phụ);
– Quy định tại Điều 411 về “Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được”.
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức:
4.1. Khoản 2, Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự” quy định như sau: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Khoản 2, Điều 401 về “Hình thức hợp đồng dân sự” cũng quy định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó” và “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Theo các quy định này, thì hợp đồng vi phạm về hình thức chỉ vô hiệu khi không đáp ứng đủ 2 điều kiện sau:
– Thứ nhất, hợp đồng bắt buộc phải được lập bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải xin phép hoặc phải đăng ký theo quy định của pháp luật;
– Thứ hai, có quy định của pháp luật về việc hợp đồng bị vô hiệu nếu vi phạm vào ít nhất một trong 4 hình thức trên.
4.2. Như vậy, không phải hợp đồng cứ vi phạm về hình thức là bị vô hiệu, mà phải có những quy định cụ thể của pháp luật về việc hợp đồng sẽ bị vô hiệu khi không đáp ứng được các điều kiện này. Cho đến nay, liên quan đến hình thức của hợp đồng, pháp luật mới chỉ quy định một số trường hợp phải được làm thành văn bản, phải được công chứng, chứng thực và phải được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoặc đăng ký, mà chưa thấy quy định nào của pháp luật về việc phải làm như vậy thì mới có hiệu lực, cũng không có quy định nào của pháp luật khẳng định việc tuân thủ các hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
4.3. Tuy nhiên, trên thực tế, thì gần như 100% hợp đồng không tuân thủ về hình thức văn bản, công chứng, xin phép và đăng ký trong trường hợp đã có quy định bắt buộc của pháp luật, thì sẽ đều bị Toà án tuyên vô hiệu, do đánh đồng giữa quy định của pháp luật về hình thức cũng chính là“điều kiện có hiệu lực của giao dịch”. Theo đó, thì Toà án chỉ còn mỗi việc: Tuyên tất cả cả hợp đồng vi phạm về hình thức là vô hiệu theo quy định tại Điều 134 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”. Hay nói cách khác, quy định tại đoạn 2, khoản 2, Điều 401 “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” đã bị “vô hiệu toàn bộ”, trở thành thừa và hoàn toàn vô nghĩa trên thực tế.
4.4. Cũng có những trường hợp Toà án quyết định rắc rối hơn về việc vi phạm về hình thức, như 2 ví dụ sau:
– Năm 2009, xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là Công ty TNHH Sản xuất, Thương mại, Dịch vụ Đông Nam Việt và bị đơn là Công ty TNHH Hoàng Gia, TAND huyện Đức Hòa, Long An đã tuyên hợp đồng đặt cọc (đặt chỗ) để chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai công ty, ký ngày 18-7-2006 là vô hiệu, do không có chứng nhận của công chứng. Xét xử phúc thẩm, TAND tỉnh Long An đã tuyên huỷ bản án sơ thẩm, với nhận định TAND sơ thẩm đã sai phạm, vì hợp đồng đặt cọc theo quy định tại Điều 358 về “Đặt cọc” của Bộ luật Dân sự năm 2005 không bắt buộc phải có công chứng. Trong trường hợp này, Toà sơ thẩm đã nhầm lẫn hợp đồng đặt cọc cũng phải đòi hỏi về hình thức công chứng như với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
– Năm 2010, xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) và bị đơn là Công ty Cổ phần Hàng không Đông Dương (Indochina Airlines), TAND TP Hồ Chí Minh đã tuyên hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bà Phùng Trịnh Thị Vinh, ký năm 2010, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ mở thư tín dụng của bị đơn là vô hiệu, vì không được công chứng và không đăng ký giao dịch bảo đảm. Nhưng sau đó, Toà Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM đã công nhận hợp đồng thế chấp này là hợp pháp, vì người thế chấp là người có lỗi trong việc không chịu hoàn thiện thủ tục công chứng hợp đồng theo yêu cẩu của bên nhận thế chấp. Trong trường hợp này, khác với nhiều vụ án tương tự, Toà án đã không thực hiện quy định tại Điều 134, “quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn”. Và gần như trong tất cả các vụ án, một khi đã đưa tranh chấp ra Toà án, nếu có yêu cầu các bên hoàn tất về hình thức, thì kết quả đều gần như 100% sẽ là vô hiệu, vì “quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”
4.5. Vi phạm về hình thức còn bị hiểu sai lệch đến mức, cho rằng nếu sai về tên gọi và đặc điểm của hợp đồng cũng dẫn đến vô hiệu. Ví dụ, trong một bản án vào tháng 8-2011 V/v “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp của bên thứ 3 vô hiệu” (đương sự yêu cầu không nêu tên), TAND tỉnh Quảng Ngãi đã căn cứ vào quy định tại Điều 134 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức” để tuyên hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã được công chứng và đăng ký thế chấp hợp pháp là vô hiệu, với lập luận rằng, hợp đồng này do có sự tham gia của 3 bên (bên thế chấp, bên vay vốn (được thế chấp) và bên nhận thế chấp), nên phải được lập dưới hình thức một hợp đồng bảo lãnh, chứ không phải là hợp đồng thế chấp (?!). Bản án phúc thẩm của TAND Tối cao tại Đà Nẵng vào tháng 11-2011 sau đó cũng tiếp tục tuyên hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức giao dịch. Đây là một nhận định sai lầm rất cơ bản vì: Thứ nhất, đó đúng luật phải là hợp đồng thế chấp (có thể là 2 bên hoặc 3 bên ký), chứ không phải là hợp đồng bảo lãnh như cách hiểu sai của Toà. Thứ hai, nếu cứ cho rằng hình thức bị sai từ hợp đồng bảo lãnh, sang hợp đồng thế chấp (kiểu như từ hợp đồng kinh tế, sang hợp đồng dân sự), thì cũng không thể quy kết vào trường hợp vô hiệu do không đúng về hình thức. Vì vô hiệu về hình thức chỉ đặt ra đối với các loại hợp đồng phải được lập thành văn bản, công chứng, xin phép và đăng ký theo quy định tại Điều 134.
4.6. Vì vậy, cần có các quy định cụ thể, rõ ràng hơn để bảo vệ quy định tại Điều 401 “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Các bên đã hoàn toàn tự do ý chí thoả thuận hợp đồng, kể cả về hình thức, thì cần hạn chế tối đa việc vô hiệu do không tuân thủ về hình thức. Ví dụ, theo quy định tại Điều 30 về ”Nguyên tắc quản lý”, Quy chế Quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Ban hành kèm theo Nghị định số số 134/2005/NĐ-CP ngày 01-11-2005 của Chính phủ, thì tất cả các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp phi nhà nước phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, không thể vin vào lý do, các hợp vay vốn nước ngoài không đăng ký với Ngân hàng Nhà nước là vô hiệu (không được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trả nợ lãi).
- Về hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật:
Quy định tại khoản 5, Điều 144 về “Phạm vi đại diện”: “Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” là một trong những điều cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 128 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”. Quy định này có thể dẫn đến việc tuyên hợp đồng thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ cho bên thứ ba là vô hiệu, nếu như chủ sở hữu tài sản là cá nhân, đồng thời là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, khi họ ký hợp đồng thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình để thế chấp cho nghĩa vụ dân sự của doanh nghiệp. Việc một người ký với 2 tư cách khác nhau trong trường hợp này không có bất kỳ lý do gì phải cấm đoán, vì không hề dẫn đến sự xung đột, mâu thuẫn về lợi ích. Hơn thế nữa, về bản chất giao dịch này chỉ cần bên thế chấp ký, mà không cần thiết phải có sự tham gia của bên vay tiền là cũng đã bảo đảm về giá trị pháp lý, còn nếu có bên thứ ba ký thêm thì chỉ có bảo đảm hơn. Tuy nhiên, vì quy định trên của Bộ luật Dân sự, mà rất nhiều công chứng viên đã không đồng ý chứng nhận hợp đồng thế chấp 3 bên trong trường hợp này. Để thoát khỏi vướng mắc vô lý đó, các công chứng viên lại hướng dẫn bằng cách, chỉ cho một người ký với một tư cách, còn với tư cách thứ hai, thì phải uỷ quyền cho người khác (ví dụ, nếu là cá nhân thì chồng uỷ quyền cho vợ ký hoặc là doanh nghiệp thì giám đốc uỷ quyền cho phó giám đốc ký). Cách làm này cũng không hợp lý, vì về bản chất người được uỷ quyền ký cũng chỉ là người thực hiện công việc theo ý chí của chính người uỷ quyền.
Tương tự là đối với trường hợp, một người là người đại diện theo pháp luật của 2 công ty (ví dụ là Chủ tịch của công ty này và là Tổng giám đốc của công ty khác), khi 2 công ty này ký hợp đồng với nhau, thì một người có được ký cả hai bên không? Nếu không được, thì phải uỷ quyền cho người khác và như vậy thì khác gì chính họ ký?
- Hợp đồng vô hiệu do trái đạo đức xã hội:
Điều 128 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội” giải thích: “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.” Tuy nhiên, trên thực tế, điều này rất khó xác định. Chẳng hạn, người chồng tặng cho hoặc để lại thừa kế căn nhà thuộc sở hữu của mình cho người tình, trong khi người vợ không có chỗ ở nào khác, thì có trái đạo đức hay không? Hay, một người rất giầu có thoả thuận bán cho một người rất nghèo khổ một bộ quần áo với giá đắt gấp đôi bình thường, thì liệu có đặt ra vấn đề vô hiệu vì trái đạo đức xã hội không?
Vì vậy, giải thích “những chuẩn mực ứng xử chung” thì đúng là đạo đức, nhưng hợp đồng phải trái với “những chuẩn mực ứng xử chung” nào thì mới dẫn đến vô hiệu, chứ không thể trái với mọi thứ đạo đức xã hội.
- Hợp đồng vô hiệu từng phần:
Điều 135 về “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần” quy định: “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.” Tuy nhiên, thế nào là “một phần của giao dịch vô hiệu” cũng cần phải quy định rõ hơn. Ví dụ:
– Hợp đồng mua bán ghi giá cả bằng ngoại tệ trong trường hợp không được phép, thì đương nhiên phần giá cả sẽ bị vô hiệu. Tuy nhiên, phần về giá cả vô hiệu, thì hợp đồng có vô hiệu không, có thực hiện được không, khi mà không có cơ sở để xác định được một trong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng? Liệu có thể hay là không thể tự quy đổi ngoại tệ theo tỷ giá ngân hàng hay tỷ giá chợ đen để xác định giá cả bằng đồng Việt Nam?
– Hay đối với hợp đồng cho vay tiền có thoả thuận lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản, thìchỉ phần lãi suất vượt quá vô hiệu hay toàn bộ thoả thuận về lãi suất vô hiệu. Nếu toàn bộ nội dung thoả thuận về lãi suất vô hiệu, thì người vay chỉ phải trả nợ gốc, mà không phải trả bất kỳ đồng tiền lãi nào. Và như vậy, thì khác nào hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ? Còn nếu chỉ phần vượt quá lãi suất mới vô hiệu, thì hậu quả sẽ là khuyến khích vi phạm pháp luật, vì chắc chắn thoả thuận lãi suất trái luật vẫn luôn được bảo vệ ở mức lãi suất tối đa được phép áp dụng. Và như vậy, thì rõ ràng hợp đồng chỉ vô hiệu một phần.
Điều đó cho thấy, quy định về hợp đồng vô hiệu trong Bộ luật Dân sự hiện hành còn nhiều vấn đề rất phức tạp, không rõ ràng, rất khó hiểu và đặc biệt là không hợp lý trong việc quy định vô hiệu về hình thức.
——————————————-
ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN
FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)
E-mail: duc.tt @anvilaw.com
Web: www.anvilaw.com
ĐT: 090.345.9070
BÌNH LUẬN CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005[1]
[1] Bài thứ 6 trong loạt bài tham gia xây dựng Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2] “Bình luận chế dịnh giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự năm 2005” – Luật sư Trương Thanh Đức, Tham luận Hội thảo về Bộ luật Dân sự năm 2005, BTP – JICA 31/8 – 01/9/2011.