(ANVI) – Hội nghị Góp ý Dự thảo Hiến pháp năm 2013 NHNN 05-03-2013
- Tại sao không viết ngắn gọn, khái quát (chung)?
Dự thảo Hiến pháp quá dài dòng, kể lể, lan man, ôm đồm, áp đặt, khẩu hiệu sáo rỗng, từ lời nói đầu cho đến tất cả các chương điều. Quá nhiều điều khoản, từ ngữ chỉ nên để trong các nghị quyết, chủ trương, chính sách, giáo trình và luận văn. Đặc biệt, Lời nói đầu chẳng qua cũng như là thủ tục “kính thưa” mà thôi, sao phí tới 448 chữ, dài bằng cả một bài báo như vậy?
Đề nghị bỏ bớt ít nhất 3/4 lời nói đầu và một nửa nội dung còn lại.
- Tại sao phải đặt tên nước là “Xã hội chủ nghĩa” (Điều 1)?
Tên gọi này chỉ đúng sau một vài thế kỷ nữa gì đó. Viết Hiến pháp để dùng chứ không nên viết di chúc cho muôn đời con cháu mai sau.
Vì vậy, đề nghị xem xét đổi hoặc lấy lại tên nước cũ cho đúng với thực chất, hoà nhập với toàn thế giới văn minh.
- Tại sao lại phải ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng (Điều 4)?
Cần tham khảo Trung Quốc về việc này. Việt Nam chịu ơn Trung Quốc nặng nhất, quan hệ với Trung Quốc tốt nhất (với 16 chữ vàng, 4 tốt) và học tập Trung Quốc nhiều nhất, trong khi Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 (đã sửa đổi, bổ sung 4 lần) không hề ghi nhận điều này.
- Tại sao lại chỉ nghiêm cấm một số hành vi (các điều 5, 22, 27, 31, 38, 40, 41,…)?
Dự thảo quy định một số hành vi bị nghiêm cấm như: “Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” (Điều 5); “Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người” (Điều 22); “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới” (Điều 27); “Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo” (Điều 31); “Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng người lao động chưa thành niên trái pháp luật.” (Điều 38); “Nghiêm cấm hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.” (Điều 40); “Nghiêm cấm các hành vi đe dọa đến cuộc sống và sức khỏe của người khác và cộng đồng.” (Điều 41);…
Thế hàng trăm, hàng ngàn những điều luật quy định cấm đoán khác thì chẳng hoá ra là trái với Hiến pháp? Vì vậy cần bỏ hết các quy dịnh dạng “nghiêm cấm”, chỉ nên để trong các đạo luật liên quan, chứ không nên đưa vào Hiến pháp.
- Tại sao Hiến pháp lại phải dựa vào quy định của pháp luật (các điều 15, 23,…)?
Nhiều điều của Dự thảo viết “theo quy định của pháp luật” là không hợp lý. Nếu có cái “khoá” này thì các quy định quan trọng, trong đó có các quyền cơ bản của con người cũng như quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp sẽ có nguy cơ bị vô hiệu hoá, không còn ý nghĩa.
Quy định như vậy là hạ thấp vai trò của Hiến pháp, chẳng khác nào các đạo luật bình thường, thậm chí chẳng khác nào nghị định, thông tư. Vì vậy, chỉ nên mở rộng đến theo quy định của Luật. Hiến pháp không nên viết câu quyét như các văn bản quy phạm pháp luật thông thường khác.
- Tại sao lại chỉ cấm việc lợi dụng (các điều 16, 25, 31, 64):
Dự thảo chỉ quy định cấm lợi dụng để xâm phạm một số quyền. Như vậy khác nào được phép suy luận pháp lý là xâm phạm đến cái khác là được phép và xâm phạm đến chính các quyền ấy nhưng không lợi dụng thì vẫn được phép?
Ví dụ quy định “Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 16). Như vậy thì sẽ bị suy luận thành được phép xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc,… bằng cách thức khác sao cho “không lợi dụng quyền con người, quyền công dân”.
- Tại sao phải quy định “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” (Điều 47)?
Quy định này là hoàn toàn không cần thiết. Không những thế nó trở lên sai khi mà tội “Phản bội tổ quốc” trong Bộ luật Hình sự năm 1999 nặng bằng 2 tội khác và nhẹ hơn 4 tội khác, ví dụ như “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (Điều 79).
Điều này càng thừa khi mà đã có quy định tài Điều 11 “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”.
Dẫn ra Điều này để minh hoạ cho nhận định: Dự thảo Hiến pháp có quá nhiều nội dung thừa thãi, dài dòng, vô duyên, phi pháp lý và xa lạ thực tế.
- Tại sao lại phải quy định về Công đoàn (Điều 10)?
Điều 2 đã quy định “nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” và Điều 4 đã quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam,…” nhưng tại sao lại chỉ quy định riêng 1 Điều về Công đoàn, là đại diện cho giai cấp công nhân, trong khi không có quy định về các tổ chức khác tương đương đại diện cho giai tầng khác như Hội Nông dân Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học công nghệ Việt Nam,…?
Nếu vì đảng của giai cấp công nhân, thì cần bỏ đoạn đuôi “liên minh với nông dân và tầng lớp trí thức” Nếu đã khẳng định mở rộng liên minh với nông dân và trí thức, thì cần ghi nhận cả doanh nhân, vì doanh nhân cùng với trí thức mới là tầng lớp đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của đất nước.
- Tại sao kinh tế thị trường lại cứ phải gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 54)?
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Không thể phân biệt thế nào là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với kinh tế thị trường phi định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy chỉ cần ghi “nền kinh tế thị trường” là đủ, tránh sự đối nghịch có thể xảy ra giữa hai vế là “kinh tế thị trường” và “kinh tế kế hoạch hoá tập trung”, đồng thời tránh mâu thuẫn với khoản 1, Điều 55 “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường”. Thậm chí, như vậy còn có thể bớt được cả cụm từ “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.”, vì đó là lẽ đương nhiên của nền kinh tế thị trường.
- Tại sao không quy định đa sở hữu về đất đai (Điều 57)?
Bên cạnh sở hữu Nhà nước về đất đai, công nhận thêm sở hữu pháp nhân, sở hữu cá nhân về đất đai chỉ có tốt hơn, tạo thêm động lực cho phát triển, đáp ứng được nguyện vọng cháy bỏng ngàn đời của muôn dân.
- Tại sao lại mở rộng việc thu hồi đất đai để thực hiện “các dự án phát triền kinh tế – xã hội”? (Điều 58)?
Có dự án nào ngoài mục đích an ninh, quốc phòng công cộng mà lại ngoài cả mục đích kinh tế – xã hội. Mở rộng cái đuôi này so với Hiến pháp hiện hành tức là đồng nghĩa với việc được thu hồi bất kỳ mảnh đất nào và như vậy thì hãy quy định thẳng là thu hồi trong mọi trường hợp, chứ cần gì phải vòng vo tam quốc?
Việc này có nguy cơ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng của cá nhân và doanh nghiệp sử dụng đất, vì sự mơ hồ, mênh mông của “các dự án phát triển kinh tế – xã hội”.
- Tại sao phải yêu cầu cá nhân tiết kiệm (Điều 60)?
Dự thảo quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí, tham nhũng trong hoạt động kinh tế – xã hội và quản lý nhà nước.” Không thể bắt cá nhân, tổ chức phải tiết kiệm, phòng chống lãng phí,… cả tiền bạc thuộc sở hữu của chính họ.
Nền kinh tế thị trường còn đòi hỏi kích cầu, kích thích, khuyến khích tiêu dùng.
Dự thảo Hiến pháp kêu gọi tiết kiệm, nhưng chính nó lại là một sự điển hình của sự “lãng phí” câu chữ.
- Tại sao chỉ quy định 1 lực lượng trung thành với đảng (Điều 70)?
Tại sao chỉ quy định lực lượng vũ trang có nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với đảng? Thế thì chẳng hoá ra, Toà án, Viện kiểm sát hay Ngân hàng Nhà nước thì không cần phải trung thành?
Đảng đương nhiên thuộc về tổ quốc và nhân dân, nên Lực lượng vũ trang trung thành với tổ quốc và nhân dân là đã bao trùm và đầy đủ. Nếu đưa nội dung này vào thì có phải thừa nhận 4 bản Hiến pháp trước đây không đưa vào là sai lầm hay bây giờ là sai lầm?
- Tại sao lại phải gắn thêm đuôi “nhân dân” (các điều 71, 72, 107,…)?
Tại sao quân đội, công an, toà án, viện kiểm sát, uỷ ban lại phải có cái đuôi “nhân dân”? Sao tên nước, quốc hội chính phủ, ngân hàng, kiểm toán không có đuôi “nhân nhân”.
Vì vậy cần lược bỏ hết “nhân dân” đi, riêng uỷ ban cần gọi là uỷ ban hành chính cho đúng với chức năng, vai trò của cơ quan này.
- Tại sao không giao quyền lập Hiến cho công dân (Điều 77)?
Dự thảo vẫn quy định Quốc hội có thẩm quyền “làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp”.
Đề nghị chuyển giao thẩm quyền này cho công dân để bảo đảm đúng tính chất Nhà nước ta thực sự là của dân, do dân và vì dân.
- Tại sao phải duy trì thiết chế “Uỷ ban Thường vụ Quốc hội” (Điều 78)?
Không nên đặt ra tầng nấc trung gian, bỏ đi để tăng cường tính chuyên nghiệp, bảo đảm thực quyền, tăng cường vai trò của Quốc hội và các Uỷ ban Quốc hội. Trên thực tế, thẩm quyền quan trọng nhất được Quốc hội uỷ quyền là ban hành Pháp lệnh cũng bị thu hẹp tối đa, đã đến lúc chấm dứt.
- Tại sao lại giao thẩm quyền “giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh” cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội” (Điều 79)?
Đề nghị chuyển giao chức năng này cho Toà án vì việc giải thích phải gắn liền với cuộc sống và vụ việc, chứ giải thích chung chung thì đã được giải quyết bằng các thông tư, nghị định.
- Tại sao lại phải duy trì Viện kiểm sát (Điều 112)?
Viện Kiểm sát không được xác định thuộc nhánh lập pháp, hành pháp hay tư pháp và cần bỏ đi để đến thời điểm thích hợp chuyển cơ quan này thành Viện công tố.
- Tại sao không thành lập Toà Hiến pháp (Điều 120)?
Dự thảo quy định Hội đồng Hiến pháp chỉ là cơ quan tư vấn thì hoàn toàn không cần thiết ghi nhận trong Hiến pháp.
Cần thay bằng Toà án Hiến pháp để phán quyết các vấn đề có hợp hiến hay không theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ.
- Kết luận
Những câu hỏi lớn đặt ra, trong đó có sở hữu tư nhân về đất đai, đã được đặt ra từ 20 năm trước, khi tôi tham gia vào việc tuyên truyền, tổng hợp ý kiến của nhân dân thành phố Hải Phòng đóng góp xây dựng Hiến pháp năm 1992, vẫn chưa được trả lời thoả đáng. Như vậy, ít nhất là 20 năm không nghe dân, không thừa nhận quyền lực, ý chí của dân và đi ngược lại tâm nguyện vô cùng chính đáng của nhân dân. Chỉ riêng một điểm này, nếu không thay đổi, thì việc sửa đổi Hiến pháp sẽ trở thành vô nghĩa.
Một bản Hiến pháp có tầm nhìn quá ngắn, thì sẽ không thế sống lâu bằng 4 bản Hiến pháp chết yểu trước đây.
——————————-
ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN
FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)
E-mail: duc.tt @anvilaw.com
Web: www.anvilaw.com
ĐT: 090.345.9070