(DĐDN) – Dù Hải Phòng đã “dỡ” yêu cầu phải có xác nhận để y tế mới được “ăn tết” tại quê hương nhưng điều đó cũng dấy lên cảnh báo về “tư duy giấy phép con” chưa thật sự được chính quyền địa phương loại bỏ.
Nói như LS Trương Thanh Đức – Công ty Luật TNHH ANVI, trong một Nhà nước pháp quyền, lúc bình thường hay khi chống dịch như chống giặc, thì cũng vẫn phải thượng tôn pháp luật và chúng ta đã có đủ luật để hành động. Người dân và doanh nghiệp thì luôn được quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm.
Hải Phòng sẽ tiến hành cách ly toàn bộ người Việt Nam trở về từ vùng có dịch COVID-19 tại Hàn Quốc. (Ảnh: Đặng Luân – LĐo)
Ngược lại, công chức và cơ quan nhà nước thì chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.
Vế thứ nhất nhằm bảo đảm các quyền của người dân. Vế thứ hai nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của cơ quan nhà nước, cũng là để tránh dẫn đến việc hạn chế quyền của người dân. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền. Quy định như thế là để tránh sự tùy tiện, lạm quyền, xâm hại đến lợi ích của người khác vì lý do công vụ.
Trong dòng chảy pháp luật kinh doanh, “giấy phép con” là cách gọi nôm na của các khái niệm pháp lý điều kiện kinh doanh và giấy phép kinh doanh mập mờ trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cơ quan cấp phép, là gánh nặng pháp quy mà doanh nghiệp phải gánh lấy, hệ quả là mất thời gian và tăng chi phí xã hội. Đáng nói gánh nặng pháp quy của người dân và doanh nghiệp lại bắt nguồn từ “tư duy” của chính quyền.
Hơn nữa, Khoản 2, Điều 14 , Hiến pháp năm 2013 và khoản 2, Điều 2 về “Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2015 hiện hành đều quy định, dù trường hợp cần thiết vì sức khoẻ cộng đồng, thì cũng chỉ có luật mới có thể hạn chế quyền con người, quyền công dân và quyền dân sự.
Đứng ở vị trí doanh nghiệp, trong báo cáo “Dòng chảy pháp luật kinh doanh Việt Nam năm 2020” của VCCI cũng khẳng định: trong 2020, một số văn bản đã được soạn thảo/ban hành vẫn còn thấp thoáng của “tư duy cũ”, áp đặt các biện pháp quản lý khắt khe quá mức cần thiết; chưa tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp dân doanh hoạt động.
Đơn cử như, lĩnh vực giao thông đường bộ cũng đang có xu hướng thắt chặt hơn biện pháp quản lý đối với hoạt động kinh doanh vận tải. Dự thảo Luật Giao thông đường bộ đang được sửa đổi để thay thế Luật năm 2008, trong đó có sửa đổi các điều kiện kinh doanh vận tải hành khách. Dự luật đã loại bỏ một số điều kiện kinh doanh bất hợp lý của luật hiện hành, nhưng lại bổ sung thêm một điều kiện khá quan trọng đó là lái xe kinh doanh vận tải bên cạnh việc phải có giấy phép lái xe, phải có “chứng chỉ hành nghề lái xe kinh doanh vận tải”. Đây là một loại giấy phép mới và có nguy cơ tăng thủ tục xin – cho không cần thiết.
Trong 2020, biện pháp quản lý có tính chất can thiệp vào thị trường vẫn còn “thấp thoáng” trong một số văn bản được soạn thảo. Chẳng hạn về kê khai giá cước một số loại hình vận tải hành khách. Dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư liên tịch 152/2014/TTLT-BTC-BGTVT theo hướng: cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xem xét các yếu tố cấu thành giá cước vận tải hành khách bằng xe ô tô theo tuyến cố định và quyết định xem việc tăng hoặc giảm giá cước có hợp lý không và không cho phép doanh nghiệp thực hiện mức giá mà doanh nghiệp đề xuất nếu không thấy hợp lý. Đây được xem là biện pháp quản lý can thiệp trực tiếp vào quyền tự định giá của doanh nghiệp và chưa phù hợp với các quy định của pháp luật về giá. Mà nói như ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế (VCCI), có tình trạng nhiều quy định pháp luật được ban hành rất bất hợp lý và ẩn chứa nhiều vướng mắc gây khó khăn trong quá trình thực hiện cho doanh nghiệp.
Hàng vạn người dân đang lo lắng về việc mình có phải cách ly khi về quê ăn Tết hay không. ẢNH TRẦN CƯỜNG.
Câu chuyện “vượt tầm cách ly” của Hải Phòng cũng cho thấy, biểu hiện nôn nóng, lạm quyền của công chức các cơ quan nhà nước chưa thật sự được xoá bỏ.
Chính quyền phải tăng cường khả năng thực thi công vụ, chứ không thể hạn chế quyền năng và nghĩa vụ dân sự của người dân để đạt được mục đích quản lý của mình. Việc hạn chế quyền năng dân sự chỉ được thực hiện trong tình thế khẩn cấp do luật định hoặc khi có bản án của Tòa.
Trong tố tụng, sự lạm quyền đã để lại nhiều bài học cay đắng cho người làm sai và gây ra những hậu quả to lớn cho người bị oan, gây ảnh hưởng niềm tin của dân với chính quyền. Bức cung, nhục hình là một trong những biểu hiện của lạm quyền trong hoạt động tố tụng, nó thường chỉ được phát hiện và chứng minh sau khi đã có kết luận là án oan.
Nếu Chính phủ không có chỉ đạo kịp thời, thì rất có thể tất cả 63 tỉnh, thành cùng “lây chéo” việc cách ly y tế tập trung 14 ngày, cùng ngăn sông cấm chợ và cấm đoán, hạn chế việc đi lại, sản xuất, làm việc một cách trái luật vì lý do phòng, chống dịch.
Pháp quyền phải thật sự là những nguyên tắc không được xâm phạm. Chính quyền nào cũng phải tôn trọng điều đó. Nếu cứ tái diễn, khiến người dân, doanh nghiệp mất niềm tin thì hậu quả khó có thể đong đếm nổi.
Đã có ít nhất 5 tỉnh, thành gồm: Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quảng Nam, thực hiện việc cách ly tập trung 14 ngày đối với người đi vào địa phương mình, nếu như đến từ (kể cả đi qua) Hà Nội, Sài Gòn và hàng chục tỉnh, thành khác đã có người mắc bệnh dịch COVID-19. Theo LS Trương Thanh Đức, việc 5 tỉnh thành “ngăn sông, cấm chợ” và cách ly tập trung người đến từ Hà Nội, Sài Gòn cũng như một số tỉnh, thành có dịch khác là trái với các quy định sau đây: Thứ nhất, trái với quy định về trường hợp phải “cách ly y tế” tại khoản 16, Điều 2 về “Giải thích từ ngữ”, Luật Phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007: “Cách ly y tế là việc tách riêng người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm hoặc vật có khả năng mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nhằm hạn chế sự lây truyền bệnh”. 5 tỉnh, thành trên đã mặc định rằng người đến từ Hà Nội, Sài Gòn và các tỉnh, thành có dịch khác thuộc đối tượng bắt buộc phải cách ly, trong khi pháp luật và chính các địa phương đó lại không hề coi họ là đối tượng phải cách ly tập trung; Thứ hai, trái với quy định “hạn chế ra, vào vùng có dịch đối với người và phương tiện” tại điểm a, khoản 1, Điều 53 về “Kiểm soát ra, vào vùng có dịch đối với bệnh dịch thuộc nhóm A”, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007. Hải Phòng chưa có ca bệnh nào, không phải là “vùng có dịch”, nên không thuộc trường hợp thực hiện các biện pháp “hạn chế ra, vào”. Thứ ba, trái với quy định về 4 địa điểm cách ly y tế tập trung tại Điều 1 về “Áp dụng biện pháp cách ly y tế”, Nghị định số 110/2010/NĐ-CP ngày 30-9-2010 của Chính phủ “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về áp dụng biện pháp cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế và chống dịch đặc thù trong thời gian có dịch”. Theo đó, việc cách ly tập trung của 5 tỉnh, thành nêu trên không thuộc vào trường hợp nào trong số 4 nơi cách ly y tế dành cho từng loại đối tượng cụ thể, gồm tại nhà, tại cơ sở y tế, tại cửa khẩu và tại nơi khác khi tại cửa khẩu bị quá tải; Thứ tư, trái với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020. Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã giải thích rõ “Cách ly toàn xã hội không phải là biện pháp phong tỏa, nội bất xuất ngoại bất nhập, cũng không phải là lệnh giới nghiêm như thời chiến. Mục tiêu của biện pháp cách ly toàn xã hội là nhằm giảm tối đa tương tác giữa người với người trong xã hội”. |
NGỌC LAM
———————–
Diễn đàn Doanh nghiệp (VCCI) 07-02-2021:
https://enternews.vn/cach-ly-phai-co-xac-nhan-va-tu-duy-giay-phep-con-191237.html
(710/1.637)