(TT) – Ngày 15/8 tới đây, Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu sẽ chính thức hết hiệu lực thi hành.
Trong khi đó, dịch COVID-19 lần thứ tư đã khiến hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu thông xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp bị đình trệ, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng và làm gia tăng áp lực nợ xấu, xử lý và thu hồi nợ xấu đối với hệ thống các tổ chức tín dụng. Trong 5 năm qua, ngành ngân hàng đã xử lý nợ xấu theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 theo Nghị quyết 42/2017/QH14 và đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank, Hà Nội. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN
Việc tiếp tục duy trì Nghị quyết 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) triệt để giải quyết nợ xấu – vốn được coi là “cục máu đông” làm tắc nghẽn sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế đang là mối quan tâm rất lớn của cả ngành ngân hàng và các tổ chức tài chính, các cơ quan quản lý Nhà nước. Sáng 19/2 tại Hà Nội, Báo Lao Động đã tổ chức hội thảo trực tuyến với chủ đề “Cần Luật hoá Nghị quyết 42 để giải bài toán xử lý nợ xấu ngân hàng”.
Hiệu quả tích cực
Điểm qua thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng hiện nay, Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho hay, số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9%, tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020 và nếu tính thêmSao chép⌘+C nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC) thì tỷ lệ này là 3,9%. Nợ xấu gộp gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại cũng tăng mạnh từ mức 5,1% cuối năm 2020 lên mức 7,31% vào cuối năm 2021, tương đương mức 7,4% vào cuối năm 2017 – thời điểm Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực.
Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng là điều đã được dự báo trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Đặc biệt, làn sóng thứ 4 với biến chủng Delta trong năm 2021 đã gây ra các tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân. Báo cáo tài chính năm 2021 mới được các ngân hàng công bố, nợ xấu có xu hướng gia tăng rõ rệt tại một số ngân hàng như: VPBank tăng 60% so với năm 2020, Vietinbank là 49%, VIB 58%, HDB 43%… Bình quân số dư nợ xấu ở 28 ngân hàng thương mại niêm yết và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) tăng 17,3% so với năm 2020.
Trước những tác động tiêu cực từ dịch COVID-19, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng đã triển khai nhiều giải pháp thiết thực và kịp thời giúp đảm bảo an toàn cho hoạt động hệ thống ngân hàng và hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn như ban hành các Thông tư 01/03/14 nhằm thực hiện cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi, phí nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi đại dịch. Kết quả, lũy kế từ cuối tháng 1/2020 đến hết năm 2021 đã có khoảng 616 nghìn tỷ đồng nợ đã được cơ cấu lại; miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 2,26 triệu khách hàng với tổng dư nợ hơn 3,9 triệu tỷ đồng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư kí Hiệp hội Ngân hàng nhấn mạnh, nhờ có Nghị quyết 42, tính đến cuối năm 2021, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được trên 1,3 triệu tỷ đồng nợ xấu; trong đó, giai đoạn 2012-2015 xử lý được 493,1 nghìn tỷ đồng; giai đoạn 2016-2021 xử lý được trên 800 nghìn tỷ đồng.
Tổng nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 368,9 nghìn tỷ đồng không bao gồm nợ xấu xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro. Số nợ xấu được xác định là được xử lý thu hồi trong giai đoạn từ ngày 15/8/2017 đến cuối năm 2021, đạt trung bình khoảng 6,92 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 3,94 nghìn tỷ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết số 42 (giai đoạn năm 2012 – 2017). Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016-2021 được duy trì dưới mức 3%.
Như vậy, với những kết quả đạt được đã cho thấy vai trò, tầm quan trọng của Nghị quyết số 42 trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, góp phần xử lý hiệu quả nợ xấu, thu hồi vốn cho các tổ chức tín dụng để tái đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Vướng mắc trong thực tiễn
Trong quá trình triển khai Nghị quyết 42, ông Phan Thanh Hải, Phó Tổng giám đốc BIDV cho hay, ngân hàng này cũng vướng phải không ít khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, do những bất cập trong thi hành án; nhất là khó khăn trong thẩm định giá khoản nợ và xử lý tài sản bảo đảm là quyền khai thác khoáng sản.
Nghị quyết 42 chưa quy định chế tài xử lý hoặc cơ chế, cách thức tiến hành cưỡng chế trong trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không hợp tác. Do đó, khi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm trên thực tế, tổ chức tín dụng gần như phụ thuộc vào sự phối hợp của bên bảo đảm.
Thêm nữa, ngoài việc là nhà ở hoặc công trình gắn liền với đất như nhà xưởng, nhà kho… thì tài sản đảm bảo còn có thể là những tài sản khác như vật dụng, đồ đạc, thiết bị, dụng cụ, vật tư,… Nhưng, pháp luật chưa quy định về trình tự, thủ tục thông báo, cưỡng chế tháo dỡ, di dời, bảo quản, xử lý… trong khi tổ chức tín dụng và cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện cưỡng chế đối với các loại tài sản này.
Hay như việc xử lý nghĩa vụ tài chính tồn đọng của bên bảo đảm, cũng đặt các tổ chức tín dụng vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” vì nếu thống nhất được với cơ quan thuế về việc dùng tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán các khoản án phí, nghĩa vụ thuế của bên bảo đảm thì chưa phù hợp với Nghị quyết 42. Ngược lại, nếu tổ chức tín dụng đề nghị không thanh toán các khoản nghĩa vụ này thì lại không hoàn tất được giao dịch. Điều này dẫn đến việc bên mua đề nghị hủy giao dịch mua bán tài sản bảo đảm và yêu cầu tổ chức tín dụng hoàn trả lại tiền mua tài sản…
Đồng tình với viện dẫn của đại diện BIDV, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam cho biết, vấn đề then chốt, quan trọng nhất mà Nghị quyết 42 mang lại là tác động đến nhận thức của xã hội và các cơ quan chức năng. Đặc biệt là ý thức về nghĩa vụ trả nợ của người vay cũng như trách nhiệm trả nợ thay, xử lý tài sản thế chấp của người thứ 3 bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của người vay. Việc chây ỳ, trì hoãn nghĩa vụ trả nợ và xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng vay và người có tài sản thế chấp không còn có lợi như trước đây mà thậm chí trở thành bất lợi hơn.
Việc xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến vấn đề rất quan trọng là quyền của chủ sở hữu tài sản. Có quan điểm lo ngại rằng, việc thu giữ tài sản thế chấp là vi phạm quyền sở hữu. Xét về bản chất, việc chủ sở hữu tài sản thực hiện giao dịch thế chấp là đã tự nguyện thỏa thuận và chấp nhận hậu quả pháp lý ảnh hưởng hạn chế, bất lợi đến quyền sở hữu tài sản và chỗ ở của mình, mà mức độ cao nhất là chấp nhận không còn quyền sở hữu tài sản và không còn chỗ ở.
Xét về hậu quả pháp lý của việc bảo đảm, nhất là trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm, có thể coi quyền bảo đảm tương tự như quyền định đoạt tài sản. Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng có một quy định gián tiếp rằng quyền bảo đảm là quyền định đoạt. Đó là thành viên góp vốn của công ty hợp danh có quyền “định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách để thừa kế, tặng cho, thế chấp, cầm cố và các hình thức khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”. Vì vậy, có thể coi quyền bảo đảm bằng tài sản là một dạng quyền định đoạt tài sản có điều kiện. Điều kiện trong trường hợp này là khi phải xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm.
Nợ xấu có tài sản bảo đảm, nhất là nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tuy có khả năng thu hồi, nhưng lại gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trên thực tế, nên rất cần cơ chế pháp lý hỗ trợ để xử lý; trong đó, tập trung vào việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ. Cùng với đó, cần có sự hoàn thiện các quy trình, thủ tục và cơ chế được quy định trong Nghị quyết 42 để tránh việc tổ chức tín dụng lợi dụng vị thế, lạm quyền và tiêu cực gây thiệt hại cho người có tài sản thế chấp.
Khuyến nghị sửa đổi
Từ góc độ chuyên môn và cũng xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn trước áp lực nợ xấu đang và sẽ diễn biến căng thẳng hơn khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực thực thi vào tháng 8 năm nay, các chuyên gia và đại diện các tổ chức tín dụng đều thống nhất kiến nghị, phải sớm luật hoá Nghị quyết 42 và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo để hỗ trợ tích cực hơn cho công tác xử lý nợ xấu là điều cấp thiết hiện nay.
Theo đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần Đại chúng Việt Nam (PVcomBank), dựa trên hiệu quả thực tế trong quá trình xử lý nợ xấu, PVcomBank đề xuất tiếp tục duy trì Nghị quyết số 42; đồng thời luật hóa văn bản này để tạo hành lang pháp lý nhằm phát huy những điểm phù hợp và tích cực đã có. Song song đó, bổ sung một số điểm mà Nghị quyết 42 chưa đề cập để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các tổ chức tín dụng hiện nay; điều chỉnh quan hệ xã hội của các chế định pháp luật nói chung theo quy định của Nghị quyết 42 nhắm tới mục đích kiểm soát và điều chỉnh tỷ lệ nợ xấu trong quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Tiến sĩ Cấn Văn Lực khuyến nghị, Chính phủ nên xem xét đề xuất Quốc hội sớm tổng kết Nghị quyết 42, tiến tới luật hóa Nghị quyết 42 trên cơ sở rà soát, hoàn thiện và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan. Hoặc, ít nhất là gia hạn trong khoảng thời gian 3 năm để chuẩn bị cho dự thảo luật, cũng như kịp thời tháo gỡ những vướng mắc nêu trên.
Trường hợp Quốc hội xem xét, thông qua việc luật hóa Nghị quyết 42 thì sau khi Luật Xử lý nợ xấu được ban hành và triển khai áp dụng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng như các cơ quan chức năng có liên quan sẽ có cơ sở để tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và đề xuất ban hành đồng bộ các nghị định, thông tư quy định, hướng dẫn cụ thể. Từ đó, giải quyết các vấn đề, vướng mắc phát sinh xoay quanh việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
“Việc đồng bộ hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến xử lý nợ xấu sẽ là tiền đề quan trọng để xây dựng hành lang pháp lý cần thiết, hình thành một môi trường kinh tế lành mạnh, hoạt động cấp tín dụng và xử lý nợ chuyên nghiệp, bài bản cho Việt Nam, góp phần nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam”, ông Phan Thanh Hải, đại diện Ngân hàng BIDV góp ý.
Ngọc Quỳnh (TTXVN)
————-
Tín tức (Kinh tế) 19-02-2022 (511/2.343):