(CFF) – Muốn cho vay cá nhân nhiều thì phải làm gì?
Câu hỏi: Công ty tài chính làm gì để phát triển cho vay tiêu dùng?
Luật sư Trương Thanh Đức: Công ty tài chính muốn cho vay nhiều thì phải có thủ tục nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng. Tức phải có phần mềm, chuyên gia để tập hợp dữ liệu, chấm điểm tiêu chí khách hàng phù hợp, an toàn nhất, còn tuyệt đối thì không vì lĩnh vực này có rủi ro rất lớn. Còn nếu ngồi chờ khách hàng tìm đến như ngân hàng thì khó cho vay được.
Doanh nghiệp cũng phải tạo ra nhiều sản phẩm, chương trình. Đặc biệt cần liên kết với các nhà cung ứng, bán hàng. Khi vay tiêu dùng, khách hàng rất hạn chế mang tiền về rồi tiêu pha không rõ ràng. Do đó, cần có sự liên kết với nhà phân phối để có thể hỗ trợ nhau quản lý.
Ngoài ra, tôi đặc biệt lưu ý đến việc phải tạo ra sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.Cấn Văn Lực: Sau Covid-19, các doanh nghiệp và công ty tài chính đã đến lúc rà soát lại chiến lược kinh doanh của mình. Tư duy giờ đã khác rồi vì nhiều xu hướng mới, thị hiếu mới xuất hiện và phải có những sản phẩm mới may đo phù hợp.
Các CTTC cũng phải quan tâm hơn đến phát triển nền tảng công nghệ. Nhiều công ty hiện vẫn còn quản lý thủ công, tốn kém, dẫn đến buộc phải đẩy lãi suất cao lên.
Các CTTC cần cân đối giữa rủi ro và lãi suất. Không mặc định tín dụng tiêu dùng thì lãi suất phải cao. Nếu quản lý hiệu quả, giảm được các gánh nặng trong vận hành thì vẫn đưa ra được mức lãi suất hợp lý cho người dân, tăng mối quan hệ bền vững với người dân.
Khả năng thu hút đầu tư vào lĩnh vực tài chính tiêu dùng sau Covid-19 ở Việt Nam hiện nay có gì khác so với trước?
Câu hỏi: Khả năng thu hút đầu tư vào lĩnh vực tài chính tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay có gì khác so với trước?
Cấn Văn Lực: Rõ ràng chúng ta có rất nhiều tiềm năng nhưng còn phụ thuộc vào quan điểm của nhà nước về vấn đề này. Khi tư vấn, chúng tôi luôn cho rằng Nhà nước nên cởi mở hơn với các mô hình tín dụng mới nhưng có kiểm soát. Với kinh tế số, các mô hình kinh doanh mới, bao gồm cả tín dụng số cũng phải như vậy.
Một là chúng ta cần có khung pháp lý để kiểm soát ngay từ đầu. Hai là để nó tự do phát triển một thời gian sau đó sẽ điều chỉnh vào khuôn khổ. Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hình thức số 1, cho hoạt động thí điểm trong khuôn khổ khung pháp lý. Cái đó là cách thức tiếp cận cởi mở và phù hợp.
Chúng ta đang trong một xu thế quan trọng: Kinh tế số, các mô hình kinh doanh số có đà phát triển cực mạnh sau đại dịch. Chúng ta không thể đi chệch thời đại.
Câu hỏi: Tín dụng tiêu dùng là con gà đẻ trứng vàng?
Luật sư Trương Thanh Đức: Năm nay dịch bệnh thì khó khăn, nhưng vài năm tới thì vẫn là con gà đẻ nhiều trứng vàng, trứng rất to.
Cơ hội nào cho Tín dụng tiêu dùng phát triển giai đoạn hậu Covid-19?
Câu hỏi: Tín dụng tiêu dùng liệu có phát triển giai đoạn hậu Covid-19?
Cấn Văn Lực:Việt Nam chúng ta còn rất nhiều tiềm năng, ở 4 điều:
Tiềm năng triển vọng về tăng trưởng kinh tế năm nay của Việt Nam còn tương đối sáng sủa so với nhiều nước. Dự đoán là 4 -5% – là mức cao nhất trong khu vực.
Quy mô của tiêu dùng cá nhân rất lớn, tương đương 80% GDP. Cho vay tiêu dùng ở Việt Nam, cả cho vay mua nhà sửa nhà, tổng chiếm khoảng 19% tổng dư nợ. Nhưng nếu bóc tách ra tín dụng bất động sản nhà ở thì cho vay tiêu dùng chỉ khoảng 12% tổng dư nợ – ở mức thấp so với trung bình, so với Trung Quốc 21%.
Nhu cầu đó cũng khớp với nhu cầu của các tổ chức tín dụng.
Văn hóa vay mượn của người tiêu dùng cũng thay đổi. Người sẽ sẵn sàng đi vay nhiều hơn.
Câu hỏi: Cơ hội phát triển cho tín dụng tiêu dùng từ khung pháp lý?
Luật sư Trương Thanh Đức: Với quy định hiện nay như Thông tư 43 thì hợp lý nhưng các tổ chức tín dụng vẫn mong muốn được rộng rãi, xênh xang hơn nữa. Nhưng nó có 2 mặt của vấn đề, khi thị trường phát triển nóng, nhu cầu người dân lớn mà quản lý không chặt dẫn đến rủi ro cho bản thân doanh nghiệp và cả hệ thống ngân hàng.
Hiện nay, số lượng tổ chức cho vay tín dụng tiêu dùng chính chưa nhiều, dẫn đến ít cạnh tranh. Tín dụng đen lúc này là điều tất yếu vì không đáp ứng được nhu cầu thị trường. Cần phải phát triển thêm các tổ chức tín dụng cả về số lượng và mô hình. Để như thế cần phải khuyến khích về cơ chế, về thị trường để nhiều người tham gia vào. Chứ lượng còn thiếu thì khó nói về chất.
Cá nhân và hộ gia đình thường khó tự chứng minh ảnh hưởng bởi Covid-19 và lập phương án kinh doanh, vậy làm thế nào để giúp họ có thể tiếp cận vốn?
Câu hỏi: Cá nhân và hộ gia đình thường khó tự chứng minh ảnh hưởng bởi Covid-19 và lập phương án kinh doanh, vậy làm thế nào để giúp họ có thể tiếp cận vốn?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Thông tư 01/2020/TT-NHNN của NHNN quy định theo hướng rất mở, trao quyền tự chủ cho các TCTD trong việc xem xét quyết định thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho các khách hàng (bao gồm cá nhân, hộ gia đình) bị ảnh hưởng bởi dịch dẫn đến sụt giảm doanh thu, thu nhập. Quy trình thẩm định, đánh giá khách hàng phải do các TCTD ban hành theo quy định nội bộ của các TCTD và phải phù hợp với từng khách hàng, từng trường hợp cụ thể.
NHNN đã yêu cầu các TCTD phải công bố công khai quy trình thủ tục; đơn giản hóa quy trình thủ tục nội bộ, tạo thuận lợi hơn nữa cho khách hàng vay vốn nhưng không nới lỏng, hạ thấp điều kiện tín dụng để đảm bảo chất lượng tín dụng, duy trì an toàn hoạt động ngân hàng; NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố cũng đã thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý kịp thời, triệt để từng trường hợp khách hàng gặp vướng mắc, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp thiếu trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ hỗ trợ cho khách hàng.
Nếu bị hạ điểm tín dụng và khó vay vốn ngân hàng thì tìm kiếm vốn ở đâu để rẻ và an toàn?
Câu hỏi: Nhiều cá nhân, doanh nghiệp lo bị hạ điểm tín dụng sẽ khó tiếp cận tín dụng hậu Covid-19. Ông nghĩ sao về điều này?
Cấn Văn Lực:Thông tư 01 là đột phá trong bối cảnh Covid-19, cho phép giãn hoãn nợ mà không chuyển nhóm. Nhiều khách hàng mặc dù đã quá hạn trả nợ nhưng không bị nhảy nhóm. Nếu tiếp tục khó khăn, TCTD có thể xem xét cho phép quay vòng tiếp.
Tôi cho rằng, năm nay, không cần lo đến chuyện bị chuyển nhóm, vẫn được phép vay bình thường.
Nhưng sang năm 2021, 2022 vẫn không vượt qua được thì phải làm việc với ngân hàng để chuyển nhóm nợ cho phù hợp.
Bây giờ vẫn được vay vốn bình thường, nhưng như tôi đã nói đừng quá chú trọng vì vốn rẻ nên đi vay, quan trọng hơn là vay về để làm gì, phải có mục đích, phương án đi vay cực kỳ rõ ràng. Khi vay rồi thì khả năng cân đối, trả nợ như thế nào.
Các DN hay cá nhân phải thực hiện đúng cam kết hợp đồng tín dụng, bởi nếu vi phạm thì sau này rất dễ bị hạ tín nhiệm, tiếp cận tín dụng sẽ khó khăn hơn.
Bắt buộc mua bảo hiểm khi vay vốn có đúng quy định?
Câu hỏi: Nhiều ngân hàng, công ty tài chính yêu cầu người vay vốn mua bảo hiểm tín dụng, điều này có đúng quy định?
Luật sư Trương Thanh Đức: Pháp luật không quy định cụ thể về việc phải hay không phải mua bảo hiểm tín dụng mà là theo thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn.
Việc mua bảo hiểm tín dụng là cần thiết đối với các sản phẩm tín dụng có mức độ rủi ro cao để bảo đảm sự an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên việc này cũng làm tăng đáng kể chi phí vay vốn của khách hàng.
Quy định về bảo vệ người cho vay và người đi vay hiện nay ra sao?
Câu hỏi: Ông đánh giá biện pháp bảo vệ người cho vay đang như thế nào?
Luật sư Trương Thanh Đức: Tôi thấy cũng phải nhìn lại các cơ chế chính sách, luật liên quan đến việc thu hồi nợ chưa rõ ràng, dẫn đến làm đúng lý thuyết là bế tắc. Vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo nên không có sức ép để người vay trả nợ. Do đó, cần có sự hỗ trợ của cơ quan chức năng, ví dụ như quản lý tiền lương, tiền ra vào tài khoản mới có hi vọng.
Luật cũng có điều khoản “rắn” như vay từ 2 triệu đồng trở lên nhưng không trả nợ, hoặc vay để tiêu pha bất hợp lý (ví dụ đánh bạc) có thể bị khởi tố, truy tố. Nhưng thực tế không xảy ra. Còn nếu đòi nợ kiểu đường đường chính chính nhắc nhở rồi kiện ra toà thì mất thời gian, tốn kém, hiệu quả không cao. Vậy nên dưới sức ép nợ xấu, trách nhiệm bảo toàn vốn, sẽ tạo ra những cách thu hồi nợ như đã thấy.
Câu hỏi: Có cơ quan nào bảo vệ người dân trong hoạt động vay vốn?
Luật sư Trương Thanh Đức: Không có cơ quan cụ thể, chuyên trách bảo vệ trực tiếp, mà chỉ có các cơ quan liên quan đến việc quản lý hoạt động, đồng thời tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như Cục quán lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước hay là cơ quan công an, với vai trò bảo vệ trật tự, trị an xã hội; các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử các tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Chia sẻ
Những nhu cầu vay vốn nào của người dân được ưu tiên giảm lãi suất?
Câu hỏi: – Những chính sách, giải pháp của ngành Ngân hàng nhằm tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng, vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN, TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung – cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng. Trường hợp khách hàng vay vốn thuộc các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao), đáp ứng đủ điều kiện vay vốn theo quy định và được TCTD đánh giá là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh thì TCTD và khách hàng thỏa thuận về mức lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam được NHNN quy định trong từng thời kỳ (hiện nay ở mức 5% theo quy định tại Quyết định số 920/QĐ-NHNN ngày 12/5/2020).
Câu hỏi: Ngân hàng Nhà nước đã tạo điều kiện gì để giúp người dân và doanh nghiệp vượt khó. Những nhu cầu vay vốn nào của người dân được ưu tiên giảm lãi suất?
Nhằm tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng, vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp để cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như:
Ban hành các văn bản và tổ chức làm việc trực tiếp với các TCTD, yêu cầu TCTD rà soát, đánh giá mức độ ảnh hưởng của dịch đối với khách hàng để xây dựng chương trình, kịch bản hành động của ngân hàng nhằm tháo gỡ khó khăn cho khách hàng;
Chủ động ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 13/3/2020 tạo khuôn khổ pháp lý để các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ, hỗ trợ cho các khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề. Riêng đối với với các đối tượng chính sách sách, người nghèo, người yếu thế trong xã hội, NHCSXH cũng triển khai các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay,… nhằm hỗ trợ khách hàng vượt qua khó khăn trong thời kỳ dịch bệnh.
Ban hành Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020, chỉ đạo các TCTD nghiêm túc triển khai các giải pháp cấp bách của ngành ngân hàng để tăng cường phòng, chống và khắc phục khó khăn do tác động của dịch bệnh, trong đó yêu cầu các TCTD đẩy mạnh thực hiện có kết quả các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay; điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp để dành nguồn lực chia sẻ khó khăn, hỗ trợ, giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng,…;
Yêu cầu các TCTD phải công khai minh bạch các thủ tục, điều kiện đối với khách hàng; chủ động cân đối sẵn sàng nguồn vốn để đầu tư cho những phương án, dự án khả thi, coi cho vay mới hỗ trợ phục hồi sau dịch là yếu tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng. Đồng thời, các TCTD đơn giản hóa quy trình thủ tục nội bộ, tạo thuận lợi hơn nữa cho khách hàng vay vốn nhưng không nới lỏng, hạ thấp điều kiện tín dụng để đảm bảo chất lượng tín dụng, duy trì tính lành mạnh, an toàn của hoạt động ngân hàng trong những năm tới;
NHNN Chi nhánh các tỉnh, thành phố thiết lập ngay đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý kịp thời, triệt để từng trường hợp doanh nghiệp gặp vướng mắc, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp thiếu trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân.
Về lãi suất: Tiếp theo 2 đợt điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất từ cuối năm 2019, từ đầu năm 2020 đến nay NHNN điều chỉnh giảm liên tiếp 02 lần các mức lãi suất nhằm ổn định và giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất.
NHNN cũng chủ động đề xuất Chính phủ cho vay tái cấp vốn số tiền khoảng 16.000 tỷ đồng từ NHNN để NHCSXH cho người sử dụng lao động gặp khó khăn về tài chính vay để trả lương cho người lao động bị ngừng việc do ảnh hưởng của dịch bệnh với lãi suất 0% và đã ban hành Thông tư số 05/2020/TT-NHNN ngày 07/5/2020 hướng dẫn triển khai theo đúng tinh thần Nghị quyết 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 và Quyết định 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020.
Bên cạnh đó, NHNN cũng triển khai nhiều giải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về thanh toán không dùng tiền mặt, miễn giảm, phí giao dịch thanh toán và phát triển công nghệ, dịch vụ ngân hàng:
Làm thế nào để kích cầu cho vay tiêu dùng khi hậu Covid-19, thu nhập người dân bị giảm sút?
Câu hỏi: Làm thế nào để kích cầu cho vay tiêu dùng khi hậu Covid-19, thu nhập người dân bị giảm sút?
Cấn Văn Lực:Quan hệ tín dụng là quan hệ thị trường, cung cầu. Người ta yếu quá, cũng khó kích người ta đi vay.
Đối với Việt Nam, điều quan trọng số 1 là kiểm soát tốt dịch bệnh, từ đó khôi phục dần các hoạt động xã hội và nhu cầu vay vốn sẽ tự bật tăng lên. Nếu dịch bệnh như tháng 4 vừa qua thì quả thật không ai muốn làm gì, không ai muốn đi vay, cũng không muốn trả nợ.
Ngoài việc giảm lãi suất, giảm phí, các TCTD cũng cần tiếp tục đơn giản hoá thủ tục, giải quyết nhanh hơn, gọn hơn, ứng dụng công nghệ thông tin để xử lý công việc nhanh hơn. Ngân hàng số đang phát triển nhanh thời gian qua và cần phát huy, tận dụng.
Chính phủ cũng cần tiếp tục các biện pháp kích cầu, gói 62.000 tỷ cũng là kích cầu, khi trao cho mỗi gia đình 1-1,8 triệu đồng, từ đó sẽ kích cầu tiêu dùng.
Bên cạnh đó, cũng cần có thiện chí hợp tác từ phía đi vay thì các TCTD mới cho vay được. Người dân đi vay phải biết vay để làm gì, khả năng cân đối trả nợ như thế nào? Cá nhân đi vay không nên đi vay quá 50% thu nhập của mình, sẽ dẫn đến quá tải khi trả nợ.
Bên cạnh đó, chúng ta sẽ thúc đẩy giáo dục tài chính, khi người dân hiểu biết hơn thì sẽ đến vay tín dụng trực tiếp nhiều hơn tín dụng đen.
Covid-19 liệu sẽ tác động thế nào đến khả năng hấp thụ vốn của người dân và doanh nghiệp trong tương lai?
Câu hỏi: Covid-19 liệu sẽ tác động thế nào đến khả năng hấp thụ vốn của người dân và doanh nghiệp trong tương lai?
Ông Nguyễn Quốc Hùng: Dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực lên mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội của người dân, tác động đến tất cả các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đối với hoạt động ngân hàng, do tác động của dịch Covid-19, cầu tín dụng giảm, tín dụng những tháng đầu năm có xu hướng tăng thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước: tháng 1 tăng 0,1%, tháng 2 tăng 0,07%, tháng 3 tăng 1,1%, tháng 4/2020 tăng 1,42% so với cuối năm 2019 (cùng kỳ năm 2019 tăng 4,44%). Ảnh hưởng của dịch bệnh dẫn đến khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng đúng hạn, dư nợ dự kiến bị ảnh hưởng là khoảng 1,8 đến 2 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 23% dư nợ toàn hệ thống.
Tuy nhiên, với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với một hệ thống chính sách mạnh mẽ, kiên quyết, vừa ưu tiên phòng chống dịch, vừa hướng tới mục tiêu hỗ trợ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sự vào cuộc đồng bộ của các Bộ, ngành, địa phương trong thời gian vừa qua sẽ là nền tảng quan trọng giúp tăng sức chống chịu của nền kinh tế, giảm thiểu tác động tiêu cực lên đời sống của người dân, là cơ sở và động lực cho tái khởi động nền kinh tế sau dịch bệnh, kéo theo đó nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp có nhiều khả năng sẽ gia tăng trong thời gian tới.
Cho vay với lãi suất bao nhiêu thì bị xử lý?
Câu hỏi: Hiện nay có nhiều đối tượng không chỉ trong nước mà cả nước ngoài vào Việt Nam cho vay tín dụng đen (mới đây có trường hợp nhóm người Trung Quốc bị bắt vì cho vay đến 1000%). Vậy cho vay tín dụng đen sẽ bị xử lý thế nào? Có phải lãi suất cho vay càng cao thì bị xử lý càng nặng?
Nếu người nước ngoài kinh doanh qua mạng, ở bên ngoài Việt Nam thì khó quản lý được. Chúng ta chỉ quản lý được ở phía tại Việt Nam.
Nếu họ hiện diện ở Việt Nam, về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm pháp luật dân sự, hành chính hay hình sự của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng bị xử lý như đối với người Việt Nam.
Nếu bị khởi kiện ra toà thì sẽ không được thừa nhận phần lãi suất vượt quá 20%/năm.
Nếu bị xử phạt về tội Cho vay lãi nặng thì ngoài chịu hình phạt chính, sẽ bị tịch thu toàn bộ số tiền gốc và lãi cho vay phạm pháp.
Cấn Văn Lực:Tôi xin bổ sung thêm nội dung về trần lãi suất. Trong luật dân sự của chúng ta có nêu mức trần 20 %, trừ khi luật chuyên ngành có mức lãi suất khác, trừ một số lĩnh vực ưu tiên do ngân hàng nhà nước và chính phủ quy định. Tài chính/cho vay tiêu dùng có mức lãi 20-50 % nhưng không hề phạm luật, bởi quy định cho phép như vậy. Vì thế chúng ta phải nhất quán các quy định với nhau, không nên áp trần lãi suất, bởi nó sẽ khiến thị trường méo mó, lách luật… nhiều nước trước đây áp trần nhưng đã phải tháo bỏ dần. Bởi về tổng thế nó gây bất lợi hơn cho kinh tế.
Các hình thức cho vay, nhất là cho vay qua mạng có hợp lệ?
Câu hỏi: Hiện nay có nhiều người, nhiều công ty mời gọi cho vay qua mạng, việc đó có hợp lệ không?
Luật sư Trương Thanh Đức: Thường quan tâm có hợp lệ hay không thì chỉ có cơ quan quản lý nhà nước và người cho vay vì liên quan đến nguy cơ không được tính lãi hay bị xử lý hành chính hoặc hình sự nếu vi phạm pháp luật.
Người đi vay thì không quan tâm mấy, họ cần vay càng đơn giản càng thích.
Về tính hợp lệ hay không hợp lệ của khoản vay thì quan điểm của quản lý nhà nước đến nay vẫn chưa rõ ràng, còn với người dân là một thách thức. Hiện có nhiều công ty, đơn vị cho vay, cầm đồ vẫn gắn chữ tài chính tín dụng khiến người dân hiểu nhầm đã được NHNN cấp phép.
Có 3 dạng chính về cho vay trên thị trường hiện nay: tổ chức hợp pháp hợp lệ đã rõ rồi (các ngân hàng, công ty tài chính tiêu dùng hợp pháp; những đơn vị khó phân biệt như là cầm đồ, quỹ đầu tư phát triển; cuối cùng là tất cả (cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp…) có quyền cho vay nhưng không được thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, những cái này cũng rất khó phân biệt được.
Không hạ chuẩn tín dụng cũng là một biện pháp hỗ trợ lâu dài
Câu hỏi: Có nên hạ chuẩn tín dụng để cho vay dễ dàng hơn?
Cấn Văn Lực: Nếu mình coi đó là 1 điều kiện thì các ngân hàng thường làm như thế nào để vừa kinh doanh đủ tốt, vừa đáp ứng đúng chỉ đạo về hạ lãi suất mà vẫn tăng trưởng.
Năm nay có một số nghịch lý đã và đang xảy ra. Tổng lợi nhuận theo tính toán của các ngân hàng sẽ giảm 30 -40 nghìn tỷ vì các gói hỗ trợ, giảm lãi suất, phải chăng hệ thống ngân hàng đang làm quá nhiều chính sách?
Thực ra hệ thống ngân hàng buộc phải làm vì cứu doanh nghiệp, người dân cũng là cứu mình. Bài toán chia sẻ cần giải quyết. Nhưng các ngân hàng nước khác không làm giống chúng ta . Chúng ta khuyến khích giảm lãi suất với các dư nợ hiện hữu.
Hệ thống ngân hàng giảm lãi suất vừa để hỗ trợ vừa để kích cầu tính dụng trong bối cảnh người dân không có nhiều nhu cầu đi vay.
Làm thế nào để đảm bảo an toàn? Thứ nhất hệ thống ngân hàng không được hạ chuẩn tín dụng, có thể vẫn giãn hoãn nợ nhưng không được nới lỏng quá tiêu chuẩn cho vay vốn, bởi như thế tiềm ẩn rủi ro lâu dài cho cả ngân hàng, chính phủ, doanh nghiệp. Không hạ chuẩn tín dụng cũng là hỗ trợ lâu dài.
Thứ hai là, vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc thị trường, không được can thiệp của các cơ quan quản lý. Bởi đây là câu chuyện quan hệ tín dụng, thương mại.
Năm nay, cả nền kinh tế của chúng ta phải chấp nhận giảm lợi nhuận, giảm chi phí, giảm lương, giảm nhân sự. Nhưng tôi kỳ vọng có sự bật dậy tốt trong một vài năm tới.
TCTD giảm lãi suất và muốn đẩy nhanh tăng trưởng tín dụng thì có nghịch lý hay không khi rủi ro sẽ gia tăng?
Câu hỏi: Các ngân hàng đang giảm lãi suất và muốn đẩy nhanh tín dụng nhưng như vậy lại tiềm ẩn rủi ro cho chính họ, vậy có nghịch lý ở đây hay không?
LS Trương Thanh Đức: Câu chuyện vướng mắc nghịch lý không phải giờ mới xảy ra, nền kinh tế Việt Nam không hoàn toàn theo thị trường, cộng với nhiều vướng mắc khác tạo ra điều này. Có thời kỳ tất cả lãi suất bằng nhau, hay có trường hợp lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn…
Ở thời điểm này rủi ro lớn nhưng ngân hàng luôn nhìn thấy rủi ro, hậu quả chậm hơn doanh nghiệp. Đáng lẽ ngân hàng cần hạn chế cho vay, tăng lãi suất để giảm rủi ro nhưng vì nhiều nguyên nhân, họ đang buộc phải chấp nhận tăng cường cho vay, hạ lãi suất, giảm phí. Thậm chí có thể ít nhiều ảnh hưởng đến cả điều kiện cho vay. Do đó, rất nhanh thôi có thể dẫn đến rủi ro của ngân hàng.
Chắc chắn sẽ phải có những giải pháp đến từ NHTM đến cơ quan quản lý để thắt chặt, kiểm soát rủi ro chứ không hi vọng loại trừ hay giảm lãi suất hơn được nữa.
Khách hàng vẫn kêu lãi suất còn cao, vậy mặt bằng lãi suất hiện nay ra sao?
Hỏi: Dù các tổ chức tín dụng đã hạ lãi suất đáng kể từ khi dịch bệnh xảy ra đến nay song khách hàng vẫn kêu lãi suất đi vay còn cao, vậy mặt bằng lãi suất hiện nay thế nào?
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng: Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và gây suy thoái kinh tế toàn cầu, Chính phủ và Ngân hàng Trung ương nhiều nước cắt giảm lãi suất điều hành và thực thi nhiều giải pháp kích thích kinh tế, hỗ trợ tài khóa với quy mô lớn. Thực hiện chủ trương và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19, từ đầu năm 2020 đến nay, NHNN đã liên tiếp điều chỉnh giảm 2 lần các mức lãi suất.
Ngày 17/3/2020, NHNN giảm đồng bộ 0,5-1%/năm lãi suất điều hành để phát tín hiệu mạnh mẽ định hướng điều hành giảm lãi suất của NHNN; giảm 0,25-0,3%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên của TCTD. Tiếp đó, ngày 13/5/2020, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm đồng bộ 0,5%/năm các mức lãi suất điều hành; giảm 0,3-0,5%/năm trần lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Sau động thái điều hành của NHNN, các TCTD đã đồng loạt giảm lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng (một số TCTD giảm lãi suất huy động các kỳ hạn trên 6 tháng) và lãi suất cho vay đối với lĩnh vực ưu tiên. Hiện mặt bằng lãi suất huy động sau điều chỉnh của TCTD phổ biến ở mức 0,1-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4-4,25%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng; 5,1-6,6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,6-7,4%/năm. Các TCTD áp dụng lãi suất cho vay tối đa đối với khách hàng thuộc các lĩnh vực ưu tiên hiện ở mức 5%/năm.
Cấn Văn Lực: Về mặt bằng lãi suất, rõ ràng lãi suất đã và đang giảm đáng kể. Hiện lãi suất giảm cả ở huy động và cho vay. Tuy nhiên, từ đầu năm đến hết tháng 4, thứ doanh nghiệp và người dân quan tâm nhất là dòng tiền, thanh khoản khi đến hạn nộp thuế, trả nợ, nộp tiền,…Chính phủ cũng đã nhận rõ vấn đề và đánh trúng khi có các gói hỗ trợ.
Trong đó, NHNN đã có Thông tư 01 với tính đột phá, khi không chuyển nhóm nợ, không tính lãi phạt chậm trả nợ. Mức giảm lãi suất từ 0,5-2,5% là mức tương đối lớn. Chỉ trừ các khoản vay bất động sản có hệ số rủi ro cao thì lãi suất ở mức cao hơn mặt bằng.
Tín dụng tăng thấp trong quý 1 nhưng sẽ tăng mạnh trong quý 2 và cả năm
Hỏi: Nhu cầu vốn của người dân và doanh nghiệp giai đoạn hậu Covid-19 thế nào?
Cấn Văn Lực: Chúng ta thấy, năm nay nhu cầu vốn của người dân và doanh nghiệp đều tương đối thấp. Hết Q1/2020, dư nợ tín dụng đạt khoảng 8,3 triệu tỷ, tương đương 134% GDP, trong đó cho vay doanh nghiệp chiếm 55%, cho vay cá nhân chiếm đến 45%. Rõ ràng, một lượng vốn tương đối khổng lồ là dành cho cá nhân, hộ gia đình.
Dù vậy, nhu cầu vốn đã bắt đầu tăng trở lại từ đầu tháng 4, với tăng trưởng tín dụng đến hết tháng 4 là 1,32% nhưng vẫn thấp hơn so với năm ngoái (4,56%). Đến tháng 5, theo số liệu do NHNN cập nhật cho thấy đã tăng tương đối tốt.
Tôi dự báo, tín dụng sẽ tăng trở lại, đến hết quý 2 sẽ đạt khoảng 3,5-4%, hết năm là 9-10% là phù hợp.
Nếu tăng trưởng GDP năm nay phấn đấu đạt 4-5%, thì tín dụng khoảng 9-10%, gấp hơn 2 lần là tương đối phù hợp. Nếu tăng 9-10% mà người dân và doanh nghiệp vẫn kêu khó thì phải xem lại thực hư xảy ra với đối tượng nào. Bởi mức tăng 9-10% là mức cao gần nhất trong khu vực. Nhu cầu về vốn của người dân và doanh nghiệp đang phục hồi trở lại và sẽ tăng lên trong thời gian tới, và tương đối lớn vì phát triển kinh tế xã hội của chúng ta đang ở mức tương đối cao so với khu vực.
Hỏi: Tín dụng sau Covid-19 liệu có bật tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước hay không?
Trong tháng 4, tín dụng có tăng trở lại nhưng không đáng kể vì còn đang giãn cách xã hội. Nhưng thời gian gần đây, huy động vốn và tín dụng đã sôi động trở lại. Khả năng bật lò xo là khá lớn, nhưng sẽ chủ yếu trong nội địa. Thị trường nội địa của chúng ta cũng rất lớn và tiềm năng. Tiêu dùng cá nhân của Việt Nam rất lớn, tương đương 80% GDP. Do đó, nếu có biện pháp kích cầu trong nước, bao gồm cả tiêu dùng nội địa thì khả năng tăng trưởng nhanh hơn.
Chuyên gia, nhà quản lý hiến kế thúc đẩy cho vay cá nhân giai đoạn hậu Covid-19
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến các nền kinh tế. Ở nước ta, Chính phủ đang cân nhắc hạ mục tiêu tăng trưởng GDP của năm nay, đồng thời cũng đã có gói hỗ trợ lên đến 62 nghìn tỷ đồng cho khoảng 20 triệu đối tượng bị tác động nặng nề từ đại dịch.
Trong báo cáo của Chính phủ đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH và ngân sách nhà nước năm 2019, tình hình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2020, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sáng 15/5 vừa qua, Chính phủ đã nhấn mạnh yêu cầu xây dựng các kịch bản “vực dậy” nền kinh tế để nền kinh tế sẵn sàng chuyển sang trạng thái hoạt động bình thường mới và các phương án, kế hoạch phục hồi ngay, phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững sau dịch.
Theo nhìn nhận của các chuyên gia, để nhanh chóng vực dậy nền kinh tế, bên cạnh những hỗ trợ từ Chính phủ thì còn phải có nguồn vốn đủ cho các doanh nghiệp, người dân tái sản xuất.
Tại hội nghị của Thủ tướng với các doanh nghiệp mới đây, người đứng đầu ngành ngân hàng là Thống đốc Lê Minh Hưng đã cam kết ngành ngân hàng sẽ cấp đủ vốn và cố gắng giảm sâu hơn nữa lãi suất. Tuy nhiên, Thống đốc cũng khẳng định có thể hạ lãi suất xuống thấp hơn song sẽ không hạ chuẩn cho vay. Bởi vậy việc doanh nghiệp, cá nhân có phương án kinh doanh và trả nợ khả thi thì tiếp cận nguồn vốn chính thức và lãi suất hợp lý là không khó. Song với các đối tượng khách hàng, nhất là các khách hàng cá nhân dính nợ xấu, bị hạ điểm tín dụng thì không thể tiếp cận được các nguồn vốn chính thức và lúc này lại làm dấy lên nỗi lo tín dụng đen bùng phát.
Riêng về nạn tín dụng đen, thực tế trên thị trường vẫn luôn tồn tại những tổ chức, cá nhân cho vay với lãi suất “cắt cổ”. Việc vay vốn từ tín dụng đen để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho bản thân người đi vay (bị đòi nợ, khủng bố tinh thần, phải trả lãi suất cao…) mà kéo theo hệ luỵ đến cả gia đình và xã hội, làm ảnh hưởng xấu tới các doanh nghiệp, ngân hàng làm ăn chân chính.
Vậy làm sao để doanh nghiệp, người dân, các hộ sản xuất tránh được bẫy tín dụng đen, làm sao để tiếp cận được nguồn vốn chính thức với lãi suất hợp lý, an toàn, hiệu quả, những chính sách nào được khuyến nghị để thúc đẩy cho vay cá nhân giai đoạn hậu Covid-19…là câu hỏi mà nhiều người quan tâm hiện nay.
Góp phần giải đáp các vấn đề trên, kênh thông tin tài chính CafeF phối hợp với chuyên trang Trí thức trẻ, Báo điện tử Tổ quốc sẽ tổ chức buổi Tọa đàm trực tuyến với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành là TS. Cấn Văn Lực và Luật sư Trương Thanh Đức, cùng với đại diện đến từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Buổi tọa đàm sẽ diễn ra vào sáng ngày 20/5, được trực tuyến trên chuyên trang Trí thức trẻ và trang tin CafeF.
Theo Trí thức trẻ
—————————–
CafeF (Giao lưu trực tuyến) 20-5-2020:
(1.096/6.193)
CafeF (Tọa đàm trực tuyến) 20-5-2020:
Giải pháp tiếp cận nguồn vốn cá nhân hậu COVID-19
Dự kiến nội dung hỏi Luật sư Trương Thanh Đức
- Các tổ chức tín dụng được cho vay với lãi suất tối đa là bao nhiêu? Lãi suất thế nào thì bị coi là tín dụng đen và xử lý hình sự?
Theo quy định hiện hành, các tổ chức tín dụng không bị giới hạn mức lãi suất cho vay tối đa, trừ một số trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 5 – 6% đối với 5 lĩnh vực như phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn; kinh doanh hàng xuất khẩu; doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, theo quy định tại Điều 13 về “Lãi suất cho vay”, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30-12-2016 của Thống đốc NHNN “Quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng”.
Đối với cho vay bên ngoài các tổ chức tín dụng, thì chỉ được phép cho vay với lãi suất không quá 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Nếu cho vay lãi cao hơn, cộng với một vài dấu hiệu phạm pháp khác thì bị coi là tín dụng đen.
Còn cho vay với lãi suất từ 100%/năm trở lên, cùng với việc thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên thì sẽ phạm “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định tại Điều 201 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Có nhiều người không tính toán khi đi vay mà cứ vay được là vay. Họ có trách nhiệm gì khi đã ký hợp đồng vay vốn với tổ chức tín dụng? Vậy nếu vay vốn không trả được nợ sẽ thế nào?
Nhiều người quên đi triết lý mang tính nguyên tắc bắt buộc là có vay có trả, đôi khi cứ muốn vay lấy được mà không nghĩ đến việc phải trả và lấy gì để trả nợ. Nợ quá hạn, nợ xấu
Khi đã ký hợp đồng vay vốn thì nghĩa vụ quan trọng nhất là phải trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Nếu người vay vốn mà không trả được nợ thì sẽ phải chịu chế tài như trả lãi quá hạn khá cao; mất tín nhiệm, có lịch sử tín dụng xấu, có nguy cơ không được vay vốn trong cả hệ thống tổ chức tín dụng.
Thậm chí, có dấu hiệu chiếm đoạt khoản tiền vay như gian dối, cố tình không trả nợ thì còn có thể phạm tội hình sự lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Nếu không thu được nợ thì bên cho vay có quyền lợi gì?
Bên cho vay có quyền chuyển thành nợ quá hạn, nợ xấu, tính thêm mức lãi quá hạn; không cho vay sau này; thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm (nếu có); khởi kiện ra Tòa án hoặc Trọng tài đòi nợ. Thậm chí có thể yêu cầu khởi tố hình sự về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Các đối tượng người nước ngoài vào Việt Nam cho vay tín dụng đen hoặc các hình thức trái phép khác có bị xử lý như các đối tượng trong nước không? Cụ thể thế nào? Có phải lãi suất cho vay càng cao thì bị xử lý càng nặng?
Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm pháp luật dân sự, hành chính hay hình sự của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng bị xử lý như đối với người Việt Nam.
Nếu bị khởi kiện ra toà thì sẽ không được thừa nhận phần lãi suất vượt quá 20%/năm
Nếu bị xử phạt về tội Cho vay lãi nặng thì ngoài chịu hình phạt chính, sẽ bị tịch thu toàn bộ số tiền gốc và lãi cho vay phạm pháp.
5.Vì sao cơ quan công an đã bắt giam, khởi tố và đưa ra xét xử nhiều vụ án liên quan tín dụng đen mà tín dụng đen vẫn phát triển?
Diễn ra một cách tràn lan, phổ biến, nhất là cho vay trên mạng.
Khó xử lý vì ranh giới mập mờ do các đối tượng cho vay lãi nặng nắm rõ pháp luật, tìm mọi cách lách luật, thường ghi trên giấy trắng mực đen mức lãi suất không vượt quá 20%, còn phần lãi suất vượt quá thường được tách riêng bằng nhiều cách thức khác nhau, như bớt đi phần tiền gốc thực nhận, trả thêm lãi ngoài giấy tờ hay phải trả nhiều loại phí khác nhau.
Mức lãi suất cho vay vượt 20 đến dưới 100% là phạm pháp (chưa đến mức xử lý hình sự) nhưng lại không bị xử phạt vi phạm hành chính, trừ đối với một vài trường hợp như cho vay cầm đồ.
- Làm sao để người dân nhận diện được mình đang vay vốn hợp pháp hay không?
Vay vốn ở doanh nghiệp có Đăng ký kinh doanh hợp pháp (có thể tra cứu trên Cổng đăng ký doanh nghiệp quốc gia), như các tổ chức tín dụng kinh doanh dịch vụ cầm cồ chẳng hạn. Nếu không có đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký kinh doanh không phải là hoạt động cho vay mà cho nhiều người vay một cách thường xuyên, liên tục có tính chất chuyên nghiệp.
Dịch vụ cho vay cầm đồ hợp pháp thì cũng chỉ được phép cho vay cầm đồ, chứ không được phép cho vay không có tài sản bảo đảm.
Nếu không phải là tổ chức tín dụng thì lãi suất, cộng phí không quá cao.
- Trên mạng xã hội có nhiều hội, nhóm bày nhau cách trốn nợ, cách vay tiền rồi bùng nợ… các hành động này vi phạm pháp luật như thế nào?
Vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo quy định của pháp luật và hợp đồng.
Vay tiền rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt từ 4 triệu đồng trở lên hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì sẽ phạm “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Có cơ quan nào bảo vệ người dân trong hoạt động vay vốn?
Không có cơ quan cụ thể, chuyên trách bảo vệ trực tiếp, mà chỉ có các cơ quan liên quan đến việc quản lý hoạt động, đồng thời tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như Cục quán lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước hay là cơ quan công an, với vai trò bảo vệ trật tự, trị an xã hội; các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử các tranh chấp và vi phạm pháp luật.
- Nhiều ngân hàng, công ty tài chính yêu cầu người vay vốn mua bảo hiểm tín dụng, điều này có đúng quy định? Theo luật sư việc mua bảo hiểm có cần thiết?
Pháp luật không quy định cụ thể về việc phải hay không phải mua bảo hiểm tín dụng mà là theo thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn.
Việc mua bảo hiểm tín dụng là cần thiết đối với các sản phẩm tín dụng có mức độ rủi ro cao để bảo đảm sự an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên việc này cũng làm tăng đáng kể chi phí vay vốn của khách hàng.
- Các hình thức cho vay qua mạng thông qua các trang web, cho vay ngang hàng có hợp lệ?
Các hình thức cho vay này có thể vi phạm hoặc không vi phạm pháp luật tuỳ thuộc phải các trường hợp khác nhau như sau:
Thứ nhất, nếu doanh nghiệp, cá nhân hoạt động cho vay với số tiền lớn một cách thường xuyên, liên tục, chuyên nghiệp như đi vay để cho vay hay như một hoạt động kinh doanh chính, thì là hoạt động cho vay bất hợp pháp, vì không được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hay pháp luật cho phép. Trường hợp này sẽ vi phạm quy định “Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng” tại khoản 2, Điều 8 về “Quyền hoạt động ngân hàng”, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;
Thứ hai, nếu doanh nghiệp, cá nhân tham gia cho vay bằng số tiền nhàn rỗi không quá lớn, không phải là hoạt động kinh doanh thường xuyên, chuyên nghiệp, thì là hoạt động hợp pháp, hợp lệ. Thậm chí pháp luật thuế còn quy định được miễn thuế giá trị gia tăng;
Thứ ba, nếu doanh nghiệp, cá nhân chỉ đóng vai trò trung gian kết nối, tư vấn, hỗ trợ các đối tượng trên để họ cho người khác vay thì là hợp pháp, vì không trực tiếp thực hiện hoạt động cho vay.
- Các ngân hàng, công ty tài chính cần làm gì để thúc đẩy cho vay cá nhân?
Cần có các dữ liệu đánh giá, thẩm định khách hàng nhanh chóng, chính xác, thực tế.
Xây dựng các sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu của khách hàng và thị trường.
Chấp nhận rủi ro ở một mức độ hợp lý, an toàn, chịu đựng được.
- Cần có những chính sách gì (về phía cơ quan quản lý, Nhà nước) để thúc đẩy cho vay cá nhân trong giai đoạn hiện nay?
Sửa đổi quy định thúc đẩy phát triển mạng lưới của các tổ chức tín dụng để mở rộng khả năng cho vay và sựu cạnh tranh.
Hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng cho vay tiêu dùng.
- Luật sư khuyến nghị gì với người dân để vay vốn an toàn, hiệu quả?
Chỉ đi vay khi có nhu cầu thật sự cần thiết và có khả năng trả nợ vay.
Xem xét kỹ lưỡng khả năng đáp ứng các điều kiện vay vốn, trả nợ, nhất là lãi suất.
Cố gắng trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi để tránh bị tăng lãi suất và sức ép khác của bên cho vay.