3.244. Cần duy trì room tín dụng để kiểm soát rủi ro 

Cần duy trì room tín dụng để kiểm soát rủi ro 

(ĐCS) – Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới (đến cuối năm 2021 tỷ lệ này đã đạt 124%). Còn Moody’s đã nâng mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2. Nhưng các tổ chức này tiếp tục cảnh báo tỷ lệ tín dụng trong nước/GDP của Việt Nam một trong những tỷ lệ cao nhất trong số quốc gia đồng hạng. Điều đó, đặt ra yêu cầu cầu hỗ trợ nền kinh tế phải đi đôi với thận trọng, bảo đảm chất lượng tín dụng.

Cần duy trì room tín dụng để kiểm soát rủi ro

Ảnh minh họa (Ảnh: M.P)

Kinh tế phục hồi tốt phát sinh nhu cầu tăng tín dụng

Tăng trưởng tín dụng 8 tháng đầu năm tăng 9,95% so với cuối năm 2021. Đây là mức tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ nhiều năm trở lại đây. Tại Diễn đàn “Tháo gỡ điểm nghẽn về chính sách và nguồn vốn để nâng cao hiệu quả thị trường bất động sản” mới đây, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV TS. Cấn Văn Lực cho rằng, có nguyên nhân khiến tăng trưởng tín dụng. Đó là kinh tế phục hồi tốt và thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang được Chính phủ chấn chỉnh lại nên thị trường trái phiếu doanh nghiệp suy giảm 4-5%, dồn nhu cầu đó sang phía ngân hàng một lần nữa. Lý do nữa khiến tín dụng tăng cũng là lý do quan trọng, tức là giải ngân đầu tư công chậm.

Trước nhu cầu vốn ngày càng cao trong mùa kinh doanh, tuần qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều chỉnh bổ sung room tín dụng cho các ngân hàng. Các chuyên gia cho rằng room tín dụng mới được cấp phần nào giải toả được cơn khát vốn, nhưng mức bổ sung lần này được cho là khá hạn chế, khó lòng đáp ứng hết nhu cầu vốn, nhất là vào mùa kinh doanh cao điểm cuối năm.

Trần Du Lịch – Thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng cho rằng, điều cấp thiết và cần phải tập trung giải quyết trong giai đoạn tới là hấp thụ vốn chứ không phải áp lực nới room tín dụng. Nếu hấp thụ được vốn thì bơm vốn có hiệu quả, không hấp thụ được vốn mà bơm sẽ không hiệu quả.

“Điều cần làm bây giờ là phải phát triển cân đối thị trường chứng khoán, trái phiếu và cả thị trường tiền tệ, chứ không phải đẩy gánh nặng vốn trong trung và dài hạn cho chính sách tiền tệ”, TS. Lịch nhấn mạnh.

Về vấn đề room tín dụng nóng lên, tại Hội nghị về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, TS Trần Đình Thiên cho rằng, áp lực vốn đổ lên khu vực vốn tư nhân như ngân hàng (vốn tín dụng) và trái phiếu, cổ phiếu. Trong khi ngân hàng vẫn cơ bản bảo đảm vốn ngắn hạn. Mà việc bơm tiền hay không bơm tiền ra đều phải căn cứ vào nợ xấu. “Ngân hàng là người tính toán tổng thể, và họ phải tính toán rủi ro, doanh nghiệp cũng cần phải hiểu tình thế như vậy. Thời gian tới, cần thay đổi cấu trúc thị trường tiền tệ, thị trường vốn để đảm bảo cấu trúc này bớt rủi ro nhất”, TS Trần Đình Thiên nêu quan điểm.

Đồng tình với quan điểm thận trọng, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cũng khuyến nghị không nên tăng hạn mức tín dụng trong điều kiện hiện nay. “14% trong bối cảnh hiện nay là quá cao rồi. Nguồn vốn chính, vai trò tăng trưởng kinh tế không thể là gánh nặng của ngành ngân hàng, mà là của các bộ, ngành khác”, Luật sư Trương Thanh Đức nói.

Còn TS Võ Trí Thành – Thành viên Tổ tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia cho rằng, diễn biến tăng trưởng tín dụng như hiện nay là phù hợp. Nhìn dài hạn, vị chuyên gia này không nên đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng mãi ở mức 13-14%. Đây là con số tăng trưởng không hề thấp nếu xét trên nhiều yếu tố như tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn gần đây và đang ở mức cao, đặc biệt từ năm 2020 (2021: 124% GDP), tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế (Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), WB), tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam.

Giữ mức tăng trưởng hợp lý

Theo đánh giá của WB, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới (đến cuối năm 2021 tỷ lệ này đã đạt 124%). Mới đây ngày 6/9, mặc dù Moody’s (Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s Investors Service) nâng mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, nhưng tiếp tục cảnh báo tỷ lệ tín dụng trong nước/GDP và tỷ lệ tổng tài sản của ngân hàng trong nước/GDP đã tăng lần lượt lên 124% và 187% trong năm 2021, là một trong những tỷ lệ cao nhất trong số quốc gia đồng hạng. Chưa kể áp lực ngắn hạn đối với tỷ giá, lãi suất vấn đề tăng vốn của các NHTM không theo kịp quy mô tăng tín dụng…

Gần đây nhất, các tổ chức quốc tế (IMF, WB, Fitch Ratings, S&P) cảnh báo khả năng suy giảm chất lượng tài sản, nguy cơ nợ xấu phát sinh; tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống và mất ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, vấn đề quan trọng nhất hiện nay để phát triển thị trường vốn, đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế phát triển bền vững theo TS. Thành đó là cần nhanh chóng sửa đổi Nghị định 153 về phát hành trái phiếu cũng như trong những năm tới có thể chế tốt để thúc đẩy thị trường trái phiếu trở thành kênh dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế.

Ông Francois Phainchaud – Trưởng đại diện Văn phòng Đại diện IMF tại Việt Nam cũng cảnh báo, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng/GDP của Việt Nam tăng cao, trong khi các vấn đề như tăng vốn lại chưa theo tiêu chuẩn khu vực, tiềm ẩn rủi ro. NHNN cần tiếp tục tăng cường quản lý hệ thống ngân hàng với những chính sách cẩn trọng đối với vấn đề này.

TS Trần Hoàng Ngân cho rằng, room tín dụng tuy là công cụ hành chính nhưng trong bối cảnh này phù hợp với hệ thống ngân hàng. “Chỉ đến khi nào hệ thống ngân hàng được củng cố, tái cơ cấu ổn định mạnh mẽ. Có thể điều hành chính sách tiền tệ thông suốt không bị gãy ở những điểm thắt do yếu kém thì lúc đó mới có thể bỏ room”, TS. Ngân chia sẻ quan điểm.

Còn TS Trương Văn Phước cho rằng, trước mắt, duy trì room tín dụng là rất quan trọng. Không chỉ giữ ổn định hoạt động hệ thống, thời gian qua, nhờ định hướng dòng chảy tín dụng cũng đã giúp cho yếu tố lạm phát thấp xuống. Thời gian tới, chính sách tiền tệ cần phải định hướng dòng chảy tín dụng qua các hệ số rủi ro. Nếu ngân hàng cho vay ngành nghề nào rủi ro nhiều thì room phải thấp. “Việc xác định room tín dụng cho các ngân hàng cần dựa vào cơ cấu tín dụng và các hệ số rủi ro. Đây là cách hỗ trợ cho chính sách tài khóa một cách gián tiếp, vì nếu như dòng vốn đi vào nền kinh tế nếu làm cho lạm phát thấp xuống, làm cho nguồn thu tăng lên”, TS. Phước gợi ý.

Các chuyên gia cho rằng, đến thời điểm này, tuy hệ thống ngân hàng đã có bước cải tổ mạnh mẽ, được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm nâng hạng tín nhiệm, nhưng sự phát triển đó vẫn chưa đồng đều, tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống ngân hàng nói riêng, toàn nền kinh tế nói chung. Hiện mặc dù đã có nhiều ngân hàng áp dụng tiêu chuẩn Basel II, thậm chí có ngân hàng áp dụng một số quy định của Basel III; nhưng cũng có ngân hàng chưa áp dụng được chuẩn Basel II. Nếu để tự do, nhu cầu tăng trưởng tín dụng của các NHTM đều trên 20%. Nếu để tăng trưởng như kỳ vọng của ngân hàng thì rất dễ bị vượt qua khả năng quản trị của họ, mặt khác tạo áp lực lớn đến lạm phát và mặt bằng lãi suất, ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hệ thống ngân hàng chủ yếu cung cấp vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, còn nguồn vốn trung – dài hạn sẽ do thị trường vốn đảm nhiệm. Tuy nhiên ở Việt Nam, thị trường vốn, thị trường chứng khoán chưa phát triển, thể hiện đúng vai trò, nên việc cân đối vốn cho nền kinh tế, bao gồm cả vốn trung – dài hạn vẫn dựa nhiều vào hệ thống ngân hàng. Điều đó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi mà nguồn vốn huy động của các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn./.

Minh Phương

—————–

Đảng Cộng sản Việt Nam (Cùng bàn luận) 16-9-2022:

https://dangcongsan.vn/cung-ban-luan/can-duy-tri-room-tin-dung-de-kiem-soat-rui-ro-619557.html

(76/1.547)

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.474. Bước đột phá giúp kinh tế tư nhân phát...

Bước đột phá giúp kinh tế tư nhân phát triển. (TT) - Trao đổi với Tuổi...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,894