3.624. Cần nâng mức giảm trừ gia cảnh trong tính thuế thu nhập cá nhân

Cần nâng mức giảm trừ gia cảnh trong tính thuế thu nhập cá nhân

(TN) – Theo Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14 về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) có hiệu lực từ ngày 1/7/2020, mức giảm trừ đối với bản thân người nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng và 4,4 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc. Từ đó đến nay, quy định về mức khởi điểm chịu thuế và giảm trừ gia cảnh dường như đã “lạc hậu”.
nâng mức giảm trừ gia cảnh
Giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng cao khiến đời sống của người lao động gặp khó khăn.
Bất cập cần thay đổi

Là nhân viên hành chính tại một doanh nghiệp xuất nhập khẩu, chị Bích Hồng sống ở Hà Nội cho biết, tổng thu nhập của hai vợ chồng chị hiện nay khoảng 34 triệu đồng/tháng. Theo quy định hiện hành, mức giảm trừ cho người nộp thuế gồm cả vợ chồng tổng cộng là 22 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ người phụ thuộc cho hai con là 8,8 triệu đồng/tháng. Như vậy, với khoản phải chịu thuế TNCN là 3,2 triệu đồng/tháng, thì số tiền thuế TNCN mà vợ chồng chị phải đóng khoảng 320.000 đồng/tháng, tính ra cả năm là khoảng 3,84 triệu đồng. Đây là khoản tiền không hề nhỏ, bởi chi phí sinh hoạt hiện nay đều tăng.

“Thu nhập của hai vợ chồng không tăng mà chi phí sinh hoạt lại tăng nhiều lần so với năm ngoái, trong khi tiền thuế TNCN không hề được giảm đồng nào. Tôi mong có những điều chỉnh trong thu thuế TNCN thích ứng với hoàn cảnh mới”, chị Hồng chia sẻ.

Tương tự, với tổng thu nhập của hai vợ chồng một tháng là 40 triệu đồng, chị Hải Yến sống tại Hà Nội cũng cho biết, ngoài tiền ăn, tiền điện nước, tiền học cho hai con… gia đình còn phải trả một khoản thuê nhà 10 triệu đồng/tháng nên hai vợ chồng phải dè sẻn từng đồng. Trong khi đó, năm vừa rồi sau khi quyết toán thuế TNCN, chị Hải Yến vẫn phải nộp hơn 11 triệu đồng tiền thuế.

“Giá cả hàng hóa tiêu dùng hiện nay đều đã tăng cao so với trước, vì vậy, việc đóng thuế thu nhập cá nhân đang trở thành gánh nặng của gia đình tôi”, chị Hải Yến than thở.

Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, khi thảo luận về thực hiện ngân sách năm 2023 và dự toán, kế hoạch phân bổ ngân sách năm 2024, ông Trần Văn Lâm, đại biểu QH tỉnh Bắc Giang cho rằng, các quy định trong tính thuế TNCN như khởi điểm thu nhập chịu thuế, mức chiết trừ gia cảnh, bậc chịu thuế… không được cập nhật theo biến động của lương tối thiểu, giá cả và lạm phát. Trong khi hầu hết các mặt hàng tiêu dùng, dịch vụ đều tăng khoảng 20-30% từ sau dịch Covid-19, khiến chi phí sinh hoạt của người dân đội lên. Thậm chí có quy định đã lạc hậu, chậm điều chỉnh cả chục năm như 7 bậc chịu thuế áp dụng từ 2007 đến nay. “Đây là bất cập lớn, cần thay đổi”, đại biểu nêu quan điểm.

Giải pháp khoan sức dân

Theo Bộ Tài chính, số thu thuế TNCN trong chín tháng năm 2023 đạt 121.200 tỷ đồng, thấp hơn 7.200 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước, tương đương mức giảm 6%. Con số này cũng chỉ mới đạt được 78% dự thu ngân sách năm 2023 (154.652 tỷ đồng). Trong 10 năm qua, đây là năm đầu tiên số thu thuế TNCN trong ba quý của năm tăng trưởng âm.

Nhìn nhận về con số này, ông Nguyễn Ngọc Tú, chuyên gia về thuế cho rằng, số thuế TNCN giảm, nhất là nguồn thu chính từ tiền lương, tiền công bắt đầu giảm là báo hiệu cho thấy người nộp thuế đang khó khăn thật sự. Doanh nghiệp bị cắt đơn hàng nên phải cho người lao động giảm giờ làm, thậm chí sa thải bớt nhân công… Những thực tế này khiến thu nhập của người lao động giảm sút. Do đó, Nhà nước cần sớm có giải pháp khoan sức dân. Trong lúc chờ QH sửa toàn diện Luật Thuế thu nhập cá nhân, Bộ Tài chính cần sớm trình Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội nâng mức giảm trừ gia cảnh.

“Mức giảm trừ mỗi tháng đối với người nộp thuế cần được nâng lên 20 triệu đồng và người phụ thuộc là 10 triệu đồng. Trong điều kiện tổng cầu suy yếu và sức mua giảm, một số nước còn cấp tiền cho người dân để tăng tổng cầu. Giải pháp này còn khuyến khích sức mua để kích thích sản xuất, kinh doanh”, ông Tú đề xuất.

Đồng tình với quan điểm này, GS, TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia tài chính thuế cũng cho rằng, quy định cho khởi điểm chịu thuế và giảm trừ gia cảnh hiện tại là không đủ để bảo đảm đời sống cho những gia đình có thu nhập trung bình. Các mức này phải tăng cao hơn.

“Lần sửa đổi sắp tới trong luật cần nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế từ 11 triệu đồng/tháng như hiện nay lên mức cao hơn, thậm chí 18-20 triệu đồng/tháng và mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc (hiện là 4,4 triệu đồng/tháng) cũng cần được nâng lên 50-70%, tức khoảng 6-7,5 triệu đồng/tháng”, ông Thịnh đề xuất.

Ngoài ra, theo quy định khi nào chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 20% mới trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét điều chỉnh, nên thời gian qua việc điều chỉnh mức giảm trừ cho người lao động chưa được kịp thời. Thực tế, lạm phát của Việt Nam thường chỉ tăng khoảng 3-4%/năm, nếu để cộng dồn CPI tăng 20% phải mất khoảng 5 năm mới điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh.

“Để quy định trong luật không lạc hậu, gây thiệt thòi cho người nộp thuế, vào cuối năm, khi Tổng cục Thống kê công bố CPI tăng hay giảm bao nhiêu thì mức giảm trừ gia cảnh cũng nên được điều chỉnh tương ứng”, ông Thịnh đề xuất.

Còn theo Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, bản chất của thuế là doanh thu trừ chi phí và có thu nhập mới phải nộp thuế. Do vậy, Luật Thuế TNCN sửa đổi cần bổ sung quy định các khoản chi phí có hóa đơn, chứng từ, như chi phí tiền học cho con, tiền lãi vay mua ngôi nhà đầu tiên, tiền chữa bệnh hiểm nghèo bảo hiểm không chi trả, tiền điện, tiền nước… phải được khấu trừ khi tính thuế TNCN.

Bảo Hưng

————-

Thời nay (Kinh tế) ngày 28-11-2023:

https://nhandan.vn/can-nang-muc-giam-tru-gia-canh-trong-tinh-thue-thu-nhap-ca-nhan-post784861.html

(89/1.168)

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác...Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC -------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.473. Hà Nội nêu điều kiện để chung cư Golden...

Hà Nội nêu điều kiện để chung cư Golden West được hợp thức hóa vi...

Trích dẫn 

4.068. Khi ngân hàng Việt tham vọng thành tập đoàn...

Khi ngân hàng Việt tham vọng thành tập đoàn tài chính đa ngành. (KTSG)...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,859