3.627. Doanh nghiệp “méo mặt” vì quy định trái khoáy của Ngân hàng Nhà nước

Doanh nghiệp “méo mặt” vì quy định trái khoáy của Ngân hàng Nhà nước

(BĐS) – Nền kinh tế Việt Nam vẫn đang đối diện với muôn vàn khó khăn, nhiều doanh nghiệp tiếp tục có nguy cơ “tắc vốn” vì những quy định bất hợp lý của Ngân hàng Nhà nước.

quy định trái khoáy Ngân hàng

Xin được bắt đầu bằng trả lời của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng vào ngày 1/11 vừa qua tại Quốc hội khi mà các đại biểu nêu thực trạng gói vay 40 nghìn tỷ đồng (giảm lãi suất 2%) triển khai từ năm 2022, kết thúc cuối năm 2023, nhưng vì sao quá chậm cho tới nay mới giải ngân được khoảng 873 tỷ đồng, một con số quá khiêm tốn và chắc chắn là không đạt được mục tiêu đề ra?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã trả lời rất thật, nêu rõ một trong những nguyên nhân là do thiết kế chương trình của rất thận trọng, quy định đối với những dự án “có khả năng phục hồi”, từ này dẫn đến người cho vay, các doanh nghiệp cho vay, đơn vị cho vay và các doanh nghiệp đi vay cũng rất ngại trong việc hiểu thế nào là doanh nghiệp “có khả năng phục hồi”.

Vì không biết thế nào là “có khả năng phục hồi” nên cả ngân hàng và doanh nghiệp đều ngại tham gia vào gói này, vì lo sợ một ngày nào đó có thể bỗng dưng gặp tai họa. Và kết quả là như đã nói ở trên, ý tưởng tốt đẹp hỗ trợ lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã thất bại.

Trả lời của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khiến cho nhiều người nghĩ tới câu chuyện không ít doanh nghiệp và nhà đầu tư rơi vào cảnh bế tắc suốt mấy tháng qua chưa tìm ra lối thoát, đó là Thông tư 06/2023/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 1/9 vừa qua. Kiểu quy định của Ngân hàng Nhà nước cũng “thòng” thêm “cái đuôi” khiến cho cả ngân hàng và doanh nghiệp đều “méo mặt” vì sợ bất ngờ một ngày nào đó sẽ vướng vào vòng lao lý.

Cụ thể hơn, tại khoản 2 điều 22 Thông tư 06 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39/2016/TT-NHNN) yêu cầu với các tổ chức tín dụng: “Trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án, có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích”.

Cũng tại Thông tư này, khoản 5 điều 26 quy định: “Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tổ chức tín dụng phải phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên tại thỏa thuận cho vay cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm”.

Trao đổi về nội dung này, ông Lê Hoàng Châu – Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM cho biết, Hiệp hội đã có công văn gửi tới Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đề nghị bãi bỏ một số quy định không còn phù hợp tại Thông tư 06 để thực hiện Công điện 993/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp phát triển thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội).

Theo ông Châu, tổ chức tín dụng gần như không thể thực hiện được trách nhiệm phải “có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích” đối với “trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án”, bởi lẽ người sử dụng vốn vay “cuối cùng” là chủ đầu tư dự án là “bên thứ 3”, không phải là khách hàng trực tiếp vay khoản tín dụng này.

Nhà đầu tư là khách hàng “vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án” thì số tiền vay này đã được tổ chức tín dụng chuyển vào tài khoản của chủ đầu tư dự án, có nghĩa là khách hàng vay tín dụng đã sử dụng vốn vay đúng mục đích “vay để thanh toán tiền góp vốn”, nên không cần thiết quy định tổ chức tín dụng phải “kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích”.

Tổ chức tín dụng không thể “kiểm soát việc sử dụng vốn vay” đối với chủ đầu tư dự án là “bên thứ 3”sau khi đã nhận “tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án” của nhà đầu tư, trừ trường hợp có hợp đồng vay tín dụng “tay ba” giữa nhà đầu tư (khách hàng vay tín dụng) – tổ chức tín dụng – chủ đầu tư dự án có thỏa thuận về quyền của tổ chức tín dụng được “kiểm tra, giám sát, đánh giá, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích” của chủ đầu tư dự án và không cần thiết quy định nội dung này.

“Quy định như tại điều 22 làm tăng thêm quy trình, thủ tục, tăng chi phí tuân thủ pháp luật” của tổ chức tín dụng, gây khó cho cả tổ chức tín dụng và chủ đầu tư dự án”, ông Châu bình luận.

Đồng thời, ông Lê Hoàng Châu cho biết về đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét bãi bỏ chi tiết điểm b khoản 2 Điều 22 và khoản 5 Điều 26 , không quy định tổ chức tín dụng “phải có biện pháp phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay” đối với “trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ “đặt cọc, thế chấp, bảo lãnh” để bảo đảm “quyền” của “bên nhận đặt cọc, thế chấp, bảo lãnh”, trong đó có trường hợp “đặt cọc” để mua, thuê mua bất động sản, nhà ở hình thành trong tương lai.

“Quy định hiện tại rất bất cập vì chủ đầu tư dự án nhà ở hình thành trong tương lai bị phong tỏa tiền đặt cọc, không được sử dụng tiền đặt cọc là bất hợp lý, không bảo đảm quyền sở hữu của chủ tài sản, trong đó có quyền sử dụng số “tiền đặt cọc” này. Điều này trái với các quy định có liên quan của Bộ Luật Dân sự”, ông Châu chia sẻ.

Những quy định bất hợp lý trong Thông tư 06 của Ngân hàng Nhà nước cần sớm được bãi bỏ để thực hiện hiệu quả Công điện 993/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ảnh minh họa: Bùi Doanh

Bình luận về các nội dung nêu trên, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, trọng tài viên Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam nói thẳng: “Ngân hàng đang vì an toàn của mình, vì sợ trách nhiệm mà đẩy hết cái khó, thậm chí gây bế tắc cho các doanh nghiệp”.

Ông Đức cho rằng, quy định của thông tư không rõ ràng, đồng thời các ngân hàng quá sợ vi phạm nên áp dụng theo kiểu giải thoát mọi trách nhiệm của mình. Trong trường hợp này, phải phải hiểu rằng, việc cho vay để góp vốn không phải là trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” để phải phong tỏa tiền vay. Nếu hiểu theo cách, doanh nghiệp vay tiền nhưng lại không được dùng tiền thì làm sao bên nhận góp vốn có thể triển khai được dự án và hoàn thành nghĩa vụ với bên góp vốn? Hệ lụy không chỉ là giao dịch kinh tế đổ vỡ mà còn gây tác động dây chuyền đến nhiều quan hệ kinh tế, dân sự khác. 

“Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng giải tỏa cách hiểu và thực hiện không đúng này. Vì nếu hiểu quy định như vậy thì đồng nghĩa với việc phải có tài sản bảo đảm gấp đôi (để ngân hàng cho vay và để ngân hàng giải tỏa số tiền đã giải ngân) cho cùng một khoản vay. Điều này là quá vô lý, gây lãng phí nguồn lực, tăng chi phí, thậm chí là đánh đố doanh nghiệp, nhất là việc siết cả kênh tín dụng và trái phiếu trong thời gian qua đang đẩy họ đến bên bờ vực”, ông Đức nêu quan điểm. 

Vẫn theo Luật sư Trương Thanh Đức, tiền cho vay để thanh toán, trả nợ, đầu tư góp vốn, hợp tác kinh doanh thì vẫn giải ngân bình thường không chịu sự chi phối tại quy định mới của Thông tư 06. Có lẽ 90% số tiền vay của doanh nghiệp là để thực hiện một nghĩa vụ nào đó theo cam kết trong các hợp đồng kinh doanh, thương mại (nên pháp luật quy định phải giải ngân vào tài khoản của người thụ hưởng, chứ không giải ngân vào tài khoản của người vay), nhưng điều đó hoàn toàn khác với việc “nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” theo các hợp đồng bảo đảm. 

Ông Đức phân tích thêm: “Thậm chí, ngay cả trường hợp số tiền vay để nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì ngân hàng cũng không được phép tự ý phong tỏa. Vì, theo quy định tại Điều 12 về “Tạm khóa và phong tỏa tài khoản thanh toán” Nghị định số 101/2012/NĐ-CP thì ngân hàng chỉ có quyền phong tỏa tài khoản trong 4 trường hợp (không có trường hợp nào theo Thông tư 06). Trường hợp giải ngân cho vay như đang đề cập thì ngân hàng chỉ được phép ‘tạm khóa (tạm dừng giao dịch) một phần hoặc toàn bộ số tiền trên tài khoản khi chủ tài khoản yêu cầu hoặc theo thỏa thuận trước giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán’. Tức ngân hàng chỉ được quyền ‘đóng băng’ tài khoản khi có yêu cầu hoặc thỏa thuận của chủ tài khoản. Cách làm này vô hình trung biến Thông tư 06 thành một văn bản sai luật, trái thực tế, gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp”.

Còn nhớ tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV diễn ra vào giữa năm 2023 vừa qua, chính Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng 70% khó khăn của thị trường bất động sản là do vướng mắc pháp lý. Và cho tới bây giờ nhiều người chợt nhận ra rằng không chỉ có vướng mắc pháp luật về đất đai, mà lại tồn tại cả những quy định bất hợp lý từ phía Ngân hàng Nhà nước, đã và đang gây ra khó khăn cho cả tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư, xa hơn nữa là có thể gây ảnh hưởng tới sự phát triển chung của nền kinh tế.

Ngọc Quang

————-

Bất động sản (Thời sự) ngày 04-12-2023:

https://reatimes.vn/doanh-nghiep-meo-mat-vi-quy-dinh-trai-khoay-cua-nhnn-20201224000024196.html

(597/2.049)

Bài viết 

311. Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế...

Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế bất động sản.Bài được giới thiệu trên trang bìa số 1, bản giấy ra ngày 03-10-2024: (KTSG) - Mục tiêu trực tiếp của việc đánh thuế tài sản là tăng thu ngân sách, tiếp đó là điều tiết cung cầu và tác động vào việc sử dụng bất động sản một cách tiết kiệm, hiệu quả, cuối cùng mới là góp phần hạ giá nhà đất.Theo định hướng, người sở hữu nhiều bất động và các bất động sản bỏ không, lãng phí đều phải bị đánh thuế cao hơn.Ảnh: H.T Giá bất động sản Giá bất động sản thấp quá hay cao quá cũng đều không có lợi cho nền kinh tế. Nhưng giá bất động sản cao hay thấp, chủ yếu phụ thuộc vào quy luật cung - cầu thị trường. Khác với nhiều nước phát triển, nơi nhu cầu bất động sản có xu hướng giảm, do nhà ở từ đô thị đến nông thôn xây dựng qua hàng trăm năm rất nhiều, chất lượng tốt, sử dụng lâu dài, trong khi dân số già, nhu cầu giảm đi, tại Việt Nam, nguồn cung đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân còn thiếu hụt rất lớn.Trong bối cảnh đó, việc giá nhà bị đẩy lên cao, trước hết là do cung - cầu, đặc biệt là khi chính sách thắt chặt, dẫn đến số lượng dự án nhà ở triển khai rất ít trong những năm gần đây. Đáng lẽ, giá nhà cao nhiều năm rồi thì thị trường sẽ phản ứng bằng việc bán ra thu lợi, đồng thời tập trung nguồn lực đầu tư ồ ạt, nhanh chóng tăng cung, hạ giá. Nhưng điều đó đã không diễn ra, vì nhà phải xây dựng trên đất ở, trong khi đất ở thì giá tăng cao; thủ tục phát triển dự án vô cùng chậm trễ, khó khăn, tốn kém, dẫn đến nguồn nhà ở đã bị chặn, siết chặt, vì nhiều lý do, cả vô tình và hữu ý.Bất động sản là một thị trường rất rộng lớn, tính cạnh tranh cao, với hàng vạn nhà đầu tư, phát triển, cùng với hàng triệu người tiêu dùng tham gia, kèm theo điều kiện số vốn rất lớn, pháp lý phức tạp, chặt chẽ, thời gian để ra được một sản phẩm thường tính bằng nhiều năm. Do đó, việc đầu tư là hoàn toàn hợp pháp, chính đáng, cần thiết và cần được khuyến khích đối với thị trường nhà ở. Hoạt động đầu cơ, găm giữ hay thổi giá sẽ không ảnh hưởng đáng kể, thậm chí dễ bị đè bẹp nếu như cung - cầu không bị quá mất cân đối. Chính sách lớn tác động không nhỏ Việc đánh thuế vào người sở hữu bất động sản cũng cần tính đến để ngăn chặn đầu cơ, nhằm giảm giá bất động sản. Tuy nhiên, với thực trạng hiện nay thì dường như mới chỉ là cách giải quyết tác động đến phần nổi của tảng băng chìm."Là một loại thuế tài sản, thì chủ yếu là nhằm thu tiền của nhà giàu, để tăng ngân sách cho cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và giúp đỡ người nghèo. Nói đơn giản là đánh thuế người có nhiều nhà đất, nhưng thực chất phải là hướng tới người có giá trị nhà đất lớn. 100 mét vuông nhà ở mặt phố trung tâm Hà Nội có thể thuộc diện bị đánh thuế tài sản, nhưng 1.000 mét vuông nhà ở miền núi hẻo lánh thì có thể không".Nhà đầu tư bất động sản bỏ vốn ra và đi vay tiền, là nhằm thu được lợi ích, trong đó quan trọng nhất là gia tăng giá trị của nhà đất, từ đó sẽ mang lại lợi ích chung cho nền kinh tế và xã hội, trong đó có việc nộp thuế vẫn diễn ra lâu nay.Việc đầu tư của pháp nhân hay cá nhân, lớn hay nhỏ, là một trong những yếu tố quyết định duy trì và phát triển thị trường bất động sản vận hành ổn định, hiệu quả. Việc đầu tư, không chỉ thúc đẩy, mà còn đóng vai trò cân bằng, ổn định thị trường.Đầu tư vào bất động sản nói chung, vào nhà ở nói riêng, không chỉ đơn thuần là việc mua đi bán lại kiếm chênh lệch, mà còn là việc bỏ ra chi phí, công sức, trả lãi tiền vay, khai thác sử dụng, cho thuê bất động sản sao cho hiệu quả cao và tổng thể là việc chấp nhận rủi ro trong đầu tư, kinh doanh.Bản thân việc đầu tư cũng là một yếu tố tham gia vào việc điều tiết thị trường. Khi giá nhà đắt đỏ, sốt nóng thì họ đầu tư xây dựng, phát triển thêm góp phần hạ giá. Khi giá nhà rẻ, đóng băng thì họ giảm đầu tư và mua hàng vào, góp phần giữ giá ổn định, để bảo vệ chính nhà đầu tư. Đó là quá trình cân bằng, hỗ trợ thị trường. Thậm chí, xét theo khía cạnh tích cực, thì về cơ bản, việc đầu cơ nhà đất cũng có tác dụng tương tự.Do đó, nếu không thận trọng xem xét, tính toán để đưa ra các giải pháp phù hợp thì việc ban hành chính sách nói chung, chính sách thuế nói riêng sẽ đi ngược lại với mong muốn, gây hại cho thị trường. Yếu tố tâm lý trong thị trường bất động sản cũng rất quan trọng và rất dễ bị ảnh hưởng lớn bởi chính sách đánh thuế. Việc nhà đầu tư e dè, không muốn tiếp tục đầu tư có thể khiến chênh lệch cung - cầu lớn hơn, khả năng tiếp cận nhà ở của người dân, nhất là người có thu nhập chưa cao, còn gặp nhiều thách thức hơn. Mục tiêu của thuế bất động sản Trước hết, cần xác định rõ mục tiêu chính của thuế bất động sản là gì? Là một loại thuế tài sản, thì chủ yếu là nhằm thu tiền của nhà giàu, để tăng ngân sách cho cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và giúp đỡ người nghèo. Vì vậy, nói đơn giản là đánh thuế người có nhiều nhà đất, nhưng thực chất phải là hướng tới người có giá trị nhà đất lớn. Vì thế đâu có đánh thuế cao, thậm chí còn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. 100 mét vuông nhà ở mặt phố trung tâm Hà Nội có thể thuộc diện bị đánh thuế tài sản, nhưng 1.000 mét vuông nhà ở miền núi hẻo lánh thì có thể không, vì giá trị có khi chưa bằng 1 mét vuông mặt phố."Đánh thuế tài sản là nhằm khuyến khích đầu tư, kinh doanh hiệu quả thông qua chìa khóa thị trường, chứ không phải để ngăn chặn việc đầu tư".Vì vậy, việc đánh thuế phải bảo đảm không triệt tiêu động lực đầu tư, phát triển các sản phẩm bất động sản nói chung, nhà ở nói riêng, nhằm điều tiết tốt hơn cung - cầu của thị trường. Về nguyên tắc, người sở hữu nhiều bất động sản và các bất động sản bỏ không, lãng phí đều phải bị đánh thuế cao hơn.Tuy nhiên, cái khó là phải giải quyết vấn đề bản chất để đạt hiệu quả tổng thể, chứ không chỉ mỗi lĩnh vực tranh cãi nhau về một mục tiêu đơn lẻ của mình là thu thuế, ngăn chặn đầu cơ hay giảm giá nhà ở. Do đó, cần tính đến nhiều giải pháp đồng bộ, chứ không phải chỉ là đánh thuế hay không đánh thuế và áp đặt thuế suất cao hay thấp.Chẳng hạn, vòng 1 vẫn có thể đánh thuế “cào bằng” theo giá trị tài sản. Nhưng vòng 2 phải là bù trừ vào số tiền đã nộp thuế từ chính việc khai thác hay cho thuê tài sản đó. Ví dụ, phải nộp thuế tài sản 100 đồng, nếu tài sản đó đã đưa vào làm cơ sở bán hàng hay cho thuê 50 đồng, thì đương nhiên phải được trừ giảm đi số tiền thuế đã nộp từ hoạt động kinh doanh, cho thuê.Mong muốn hạ giá nhà ở đã quá cao so với thu nhập và người dân, nhất là dân nghèo, có nhà ở là rất chính đáng. Nhưng đánh thuế tài sản là nhằm khuyến khích đầu tư, kinh doanh hiệu quả thông qua chìa khóa thị trường, chứ không phải để ngăn chặn việc đầu tư. Vì thế, nếu chưa có giải pháp đồng bộ, hiệu quả và khả thi thì chưa nên tính đến việc đánh thuế bất động sản.Luật sư Trương Thanh ĐứcGiám đốc Công ty Luật ANVI-----------------Kinh tế Sài Gòn (Địa ốc) 03-10-2024:https://thesaigontimes.vn/hay-nhin-tu-muc-tieu-cua-viec-danh-thue-bat-dong-san/(1.498)

Bình luận 

432. Bình luận về Luật siêu dễ - Luật lâm sản (Luật...

Bình luận về Luật siêu dễ - Luật lâm sản. (VTV3) – Chương trình giải trí truyền hình Luật siêu dễ - Chủ đề Luật lâm sản (đúng ra là Luật Lâm nghiệp), có sự tham gia của cố vấn: Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC.Quay tại S16, VTV, 43 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa sáng ngày 11-9-2024.----------------------VTV3 (Luật siêu dễ) phát hồi 17h ngày 10-11-2024:https://vtv.vn/video/luat-sieu-de-so-19-10-11-2024-704981.htmhttps://www.youtube.com/watch?v=zwrVdQQMKzI(17 phút trên VTV3 & 23 phút trên YouTube)------------------Bộ 10 câu hỏi:Luật Lâm sản (Luật Lâm nghiệp).Cố vấn: Luật sư Trương Thanh ĐứcSTT CÂU HỎI BIÊN TẬP SỬA ĐÁP ÁN HIỆU CHỈNH TIỀN ĐÍNH KÈM Tiền may mắn1 Phát hiện nhiều cây gỗ bị gãy đổ trong phân khu phục hồi sinh thái của rừng đặc dụng, ông Minh đã gom nhặt, mang về nhà để sử dụng và bán củi cho dân địa phương. Hành vi của ông Minh có vi phạm pháp luật không? Vì sao? Đáp án: Có. Không được khai thác tận thu cây gỗ đã chết, cây gãy đổ trong phân khu phục hồi sinh thái của rừng đặc dụng.Điểm a Khoản 1 Điều 52 Luật lâm nghiệp 2017 quy định về Khai thác lâm sản trong rừng đặc dụng như sau: a) Không khai thác lâm sản trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng; không khai thác tận thu cây gỗ đã chết, cây gãy đổ trong phân khu phục hồi sinh thái của rừng đặc dụng; 2.000.000  2 Khu rừng cạnh nhà anh Lâm có một con suối rất đẹp. Vợ chồng anh Lâm dùng đá suối kè đắp nắn dòng nước chảy qua trước nhà,  để tạo cảnh quan cho quán cafe. Anh Lâm đã vi phạm hành vi bị nghiêm cấm nào trong hoạt động lâm nghiệp ?A. Khai thác tài nguyên nước; B. Xây dựng trái quy định; C. Đắp đập trái quy định; D. Ngăn dòng chảy tự nhiên. D. Ngăn dòng chảy tự nhiên. Việc làm của vợ chồng anh Lâm liên quan đến cả 4 hành vi bị nghiêm cấm tại khoản 7, Điều 9 về “Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động lâm nghiệp”, Luật Lâm nghiệp. Tuy nhiên, cả 03 hành vi khai thác, xây dựng hay đắp đập thì đều có 01 dấu hiệu chung là “Ngân dòng chảy tự nhiên”. 3.000.000  3 Công ty Du lịch sinh thái Linh Thông được UBND tỉnh cho thuê rừng tự nhiên, đồng thời được phép chuyển một phần mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác. Theo quy định của Luật Lâm nghiệp năm 2017, Công ty Linh Thông phải trồng rừng thay thế bằng mấy lần diện tích rừng bị chuyển mục đích?A. Một lần B. Hai lần C. Ba  lần D. Bốn lần C.Ba lần Khoản 1 Điều 21, Luật Lâm nghiệp quy định, nếu chuyển mục đích rừng trồng thì phải trồng thay thế 01 lần, còn đối với rừng tự nhiên thì phải bằng 03 lần. 2.000.000  4 Năm 2022, hộ gia đình ông Trần Nhâm được Nhà nước giao hai ha rừng sản xuất để sản xuất lâm nghiệp kết hợp kinh doanh. Do thiếu vốn, trong hai năm sau gia đình ông vẫn chưa triển khai bất cứ hoạt động để phát triển rừng. Năm 2024 NN ra quyết định thu hồi rừng. Ông Nhâm bị thu hồi rừng vì lý do gì?A. Sử dụng rừng sai mục đích ban đầu B. Không tiến hành hoạt động phát triển rừng sau 12 tháng liên tục kể từ ngày được giao rừng C. Không tự nguyện trả lại rừng. D. Chủ rừng chưa được gia hạn giao rừng B. Chủ rừng không tiến hành hoạt động phát triển rừng sau 12 tháng liên tục kể từ ngày được giao rừng; Khoản 1, Điều 22, Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định 07 trường hợp Nhà nước thu hồi rừng. B là một trong các trường hợp mà Nhà nước thu hồi rừng, vì chủ rừng không tiến hành hoạt động bảo vệ và phát triển rừng sau 12 tháng liên tục kể từ ngày được giao rừng, trừ trường hợp bất khả kháng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. 2.000.000  5 Xưởng mộc của anh Tứ Thiết bị lực lượng kiểm lâm đột xuất kiểm tra, tìm thấy một cây gỗ đường kính 50 cm, chiều dài 10 mét. Anh Thiết cho rằng lực lượng kiểm lâm không có thẩm quyền kiểm tra nguồn gốc lâm sản trong xưởng của anh. Trong tình huống này, anh Thiết có vi phạm Luật Lâm nghiệp không và vì sao?A. Không vi phạm B. Có. Vi phạm về mua bán lâm sản; C. Có. Vi phạm về chế biến lâm sản; D. Có. Vi phạm về cất giữ lâm sản D. Cất giữ lâm sản Khoản 1 Điều 42, Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định, kiểm tra nguồn gốc lâm sản bao gồm cả hoạt động kiểm tra lâm sản trong quá trình cất giữ lâm sản. Trường hợp này, chưa xác định được xưởng của anh Thiết có khai thác, vận chuyển, chế biến, mua bán lâm sản hay không, nhưng đang có việc “cất giữ”. 1.500.000  6 Ông Lưu được Nhà nước giao rừng sản xuất để cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Ông Lưu có quyền nào sau đây?A. Để lại quyền sử dụng rừng cho người thừa kế B. Khai thác lâm sản trong rừng đặc dụng C. Được Nhà nước bảo đảm kinh phí bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng D. Tự do khai thác Đáp án A Để lại quyền sử dụng rừng cho người thừa kế Điểm d Khoản 1 Điều 82 Luật lâm nghiệp 2017 quy định về Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng sản xuất như sau: "1. Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng sản xuất có quyền sau đây: d) cá nhân được để lại quyền sử dụng rừng cho người thừa kế theo quy định của pháp luật." 2.000.000  7Bà Lịch có sổ đỏ và trong đó, cho xây dựng 400 mét vuông đất làm nhà ở, 200 mét vuông đất trồng cây ăn quả, còn lại 11.600 mét vuông đất vẫn là đất rừng. Nhưng bà Lịch tự ý xây dựng nhà ở với tổng diện tích 530 mét vuông. Bà Lịch chưa bị xử lý đối với hành vi này. Vậy trong tình huống này,  bà Lịch có bị xử phạt hình sự hay không?Đáp án: Không, bà Lịch chỉ xử phạt vi phạm hành chính Theo quy định tại Điều 228, bộ Luật hình sự 2015, và Nghị định 91/2019/nd-cp. 5.000.000 ĐỘC ĐẮC8 Anh Chi và chị Thu vào tham quan một cánh rừng ở Sóc Sơn, Hà Nội, vô tình làm cháy rừng gây thiệt hại 100 triệu đồng. Anh Chi và chị Thu bị xử phạt vi phạm hành chính tối đa với cá nhân là bao nhiêu?A. 10 triệu đồng B. 50 triệu đồng C. 100 triệu đồng D. 300 triệu đồng C. 100 triệu đồng; Khoản 8 Điều 17, Nghị định 35/2019/NĐ-CP (sửa đổi 2022), quy định mức phạt tối đa đối với cá nhân là 100 triệu đồng nếu “Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 80.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích”. 1.000.000  9 Ông Quảng Đại ở Lương Sơn, Hoà Bình bị phát hiện nuôi sáu con gấu không rõ nguồn gốc. Ông Đại khai, không mua bán gấu, mà chỉ nuôi để lấy mật. Cơ quan chức năng đã lập biên bản và xử phạt với mức cao nhất. Theo bạn, đó là mức phạt nào?A. 100 triệu đồng; B. 400 triệu đồng; C.  500 triệu đồng; D.700 triệu đồng. B. 400 triệu đồng; Khoản 14, Điều 21, Nghị định 35/2019/NĐ-CP (sửa đổi 2022) quy định: Hành vi săn, bắt, giết, nuôi, nhốt động vật rừng trái quy định của pháp luật thì bị phạt tiền với mức cao nhất là 400 triệu động. 1.000.000 ĐỒNG ĐỘI10 Trong ngày không có dự báo nguy cơ cháy rừng ở cấp IV, V thì nông dân được đốt nương làm rẫy vào khung giờ nào?A. Trước 9h, sau 16h B. Từ 9h đến 16h C. Từ 10h đến 13h D. Không được đốt Đáp án A trước 9h, sau 16h Điểm b Khoản 3 Điều 47 Nghị định 156/2018/NĐ-CPcủa Chính phủ ngày 16/11/2018 hướng dẫn Luật Lâm nghiệp: "Điều 47. Điều kiện an toàn về phòng cháy đối với khu rừng3. Khi đốt nương, rẫy, đồng ruộng, đốt thực bì để chuẩn bị đất trồng rừng và làm giảm vật liệu cháy trong rừng, người sử dụng lửa phải thực hiện: b) Không đốt vào những ngày có dự báo nguy cơ cháy rừng ở cấp IV, cấp V. Trong ngày, tiến hành đốt lúc gió nhẹ, vào trước 9 giờ buổi sáng và sau 16 giờ buổi chiều;" 1.000.000   

Phỏng vấn 

4.387. Cơ hội từ dự án đường sắt tốc độ...

Cơ hội từ dự án đường sắt tốc độ cao. (VTV1) – Chương trình...

Trích dẫn 

3.903. Mở rộng phạm vi kiểm toán để dẹp nạn...

Mở rộng phạm vi kiểm toán để dẹp nạn tăng vốn ảo của doanh nghiệp. (ĐTM)...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 231,004