3.923. Xử lý tình trạng sở hữu ngân hàng vượt trần như thế nào?

Xử lý tình trạng sở hữu ngân hàng vượt trần như thế nào?

(VT) – Hội thảo “Xây dựng tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam” sẽ có sự tham dự của các chuyên gia, luật sư hàng đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và khách mời là doanh nhân, đại diện các cơ quan ban ngành.

Sáng nay 5/12, Tạp chí điện tử VietTimes phối hợp CLB Café Số (Hội Truyền thông số Việt Nam) tổ chức hội thảo “Xây dựng các tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam” tại khách sạn Hòa Bình (Hà Nội).

Với sự góp mặt của các chuyên gia kinh tế, tài chính hàng đầu Việt Nam, nội dung thảo luận đa chiều, hội thảo hứa hẹn mang lại nhiều giá trị thực tiễn, góp phần tạo dựng một nền tảng vững chắc cho xây dựng chính sách – pháp luật về ngân hàng thương mại và tập đoàn tài chính Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.

Nhiều chuyên gia tham dự hội thảo

Hội thảo “Xây dựng tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam” có nhiều khách mời là chuyên gia, đại diện các ngân hàng tham dự, trong đó có:

  1. TS Lê Xuân Nghĩa – Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
  2. PGS Đào Hùng – nguyên Giám đốc Học viện chính sách và phát triển
  3. Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu – người từng lập ngân hàng Việt đầu tiên ở Mỹ, nguyên thành viên HĐQT độc lập của An Bình Bank.
  4. Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, nguyên Phó Tổng Giám đốc Maritime Bank
  5. Ông Phạm Xuân Hòe – nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam.
  6. LS Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty luật SBLaw
  7. Ông Chu Nguyên Bình – Phó Tổng Giám đốc Bắc Á Bank

Cùng đại diện các ngân hàng, doanh nghiệp: Tập đoàn Doji, Techcombank, VPBank, NCB, KienlongBank…

tình trạng sở hữu ngân hàng vượt trần

Ban Tổ chức chụp ảnh cùng khách mời và các chuyên gia tham gia Hội thảo

Về phía Ban Tổ chức có các ông: Ông Nguyễn Văn Hảo, Phó chủ tịch Hội truyền thông số Việt Nam; ông Lê Đức Sảo, Phó chủ tịch Hội truyền thông số Việt Nam, Chủ tịch CLB Cafe số; ông Nguyễn Bá Kiên, Tổng Biên tập Tạp chí điện tử VietTimes.

Bên cạnh đó, Hội thảo cũng có nhiều khách mời, lãnh đạo, phóng viên tới từ cơ quan báo chí.

Hội thảo được đồng hành bởi Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín; Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam; Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh

Lịch sử kiểm soát, quản lý sở hữu tại các ngân hàng

Mở đầu Hội thảo, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, trình bày tham luận về lịch sử kiểm soát, quản lý vấn đề sở hữu tại các ngân hàng.

Nêu vấn đề thứ nhất, Luật sư Trương Thanh Đức lấy ví dụ câu chuyện về Ngân hàng Hàng Hải – MSB, nơi ông có thời gian gắn bó dài. Theo ông Đức, MSB thành lập năm 1991 tại Hải Phòng với với số vốn điều lệ 40 tỷ, gần như lớn nhất lúc đó, do có gần một chục cổ đông là các tập đoàn và tổng công ty lớn, nhiều nhất là trong ngành Hàng Hải.

Hải Phòng có thế mạnh nhất là thành phố cảng. Tuy nhiên, khi đó thành tích rất lớn là sản lượng hàng hóa qua cảng Hải Phòng đạt 2 triệu tấn. Nay đã gần 200 triệu tấn, tức gấp gần 100 lần.

Vào thời điểm đó, Nghị định số 222-HĐBT ngày 23/7/991 quy định mức vốn pháp định lớn nhất là đối với ngành khai khoáng cũng chỉ có 1,5 tỷ đồng.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI

Thứ hai là vấn đề về vốn pháp định. Tại Quyết định số 223/QĐ-NH5 ngày 27-11-1993 quy định, vốn pháp định đối với ngân hàng thương mại cổ phần từ 01 – 03 – 20 – 50 – 70 tỷ đồng, tuỳ thuộc quy mô và địa bàn.

Nghị định số 82/1998/NĐ-CP quy định, vốn pháp định đối với Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn là 5 tỷ đồng, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị là từ 50 -70 tỷ đồng.

Nghị định số 141/2006/NĐ-CP quy định, từ 2008 vốn pháp định đối với ngân hàng cổ phần là 1.000 tỷ và từ năm 2010 vốn pháp định đối với ngân hàng cổ phần là 3.000 tỷ đồng.

Như vậy, chỉ trong 4 năm (từ 2006 đến 2010), vốn pháp định của ngân hàng cổ phần tăng từ vài chục đến vài trăm lần. Nếu tính trong 04 năm (2006 – 2010) thì mức tăng vốn pháp định lớn nhất lên đến 600 lần (từ 05 tỷ lên 3.000 tỷ); nếu tính trong 12 năm (từ 1998 đến 2010) thì mức tăng vốn pháp định lớn nhất lên đến 3.000 lần (từ 01 tỷ lên 3.000 tỷ).

Trên thực tế, ngân hàng thương mại cổ phần nói chung, Ngân hàng Hàng Hải nói riêng đều đã đáp ứng được việc tăng vốn điều lệ theo đúng yêu cầu.

Thứ ba là câu chuyện tăng vốn siêu tốc. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại cổ phần nói chung, Ngân hàng Hàng Hải nói riêng, còn tăng tốc vốn điều lệ hơn mức vốn pháp định nhiều lần để đảm bảo vốn điều lệ thực có không thấp hơn số vốn pháp định, bảo đảm các hệ số an toàn trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng thần tốc và cạnh tranh khốc liệt.

Đến nay nhiều ngân hàng đã tăng vốn lên nhiều chục nghìn tỷ. Dẫn đầu Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), với vốn điều lệ 79.339 tỷ đồng. Đứng thứ 2 là Techcombank với có vốn điều lệ 70.450 tỷ đồng.

Đến thời điểm này, Ngân hàng Hàng Hải cũng có vốn điều lệ khá lớn 26.000 tỷ, tăng lên hơn 600 lần, nhưng phải mất tới 30 năm, trong đó có rất nhiều năm không chia cổ tức tiền mặt, mà chỉ để tăng vốn.

Cũng khoảng thời gian 20 – 30 năm này, nếu một ngân hàng xuất phát điểm từ mức vốn điều lệ 01 – 05 tỷ đồng, tăng lên 10.000 tỷ đồng, thì con số tăng lên đến 05 – 10.000 lần.

Nhiều chuyên gia kinh tế, đại diện các ngân hàng tham dự Hội thảo.

Thứ tư là nguồn vốn chính từ cá nhân. Trừ 4 ngân hàng thương mại nhà nước Nhà nước, cổ đông nhà nước và nhiều công ty không tăng hoặc rất khó có nguồn để tăng vốn điều lệ, thậm chí là phải thoái vốn. Còn cá nhân, nhất là các đại gia, thì không muốn buông, mà ngày càng muốn tăng, muốn nắm, muốn sở hữu nhiều hơn. Do đó, tăng vốn chủ yếu là của cá nhân, thậm chí nhiều công ty tăng sở hữu bằng vốn thực chất của cá nhân.

Trong một số thời kỳ, ước đoán có tới nhiều hơn một nửa số ngân hàng cổ phần là chỉ do một số ít cá nhân sở hữu chi phối. Trong khi nhiều người giàu nhất trên sàn chứng khoán không phải là chủ ngân hàng.

Tuy nhiên, khác với lộ trình giảm dư nợ cấp tín dụng (cho 1 khách hàng từ 15%, mỗi năm giảm 1%, xuống 10% vốn tự có kể từ năm 2029 (sau 40 năm quay trở lại bằng mức quy định của Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990) và tương tự là giảm mức dư nợ đối với mỗi nhóm khách hàng và người có liên quan từ 25% xuống 15%), lại chưa đặt ra lộ trình cụ thể giảm sở hữu vốn, mà giao toàn quyền cho NHNN.

Thứ sáu là quy định mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 về việc công khai sở hữu. Luật mới quy định việc công khai cổ đông ngân hàng sở hữu từ 01% trở lên. Chỉ có công khai minh bạch thì mới có giám sát thực sự. Một người dân không nằm trong diện nộp thuế thu nhập cá nhân nhưng lại là cổ đông nắm 01% vốn ngân hàng, một doanh nghiệp liên quan đến giới chủ vay rất nhiều từ ngân hàng, nếu được công khai chi tiết thông tin thì công chúng đều nhìn thấy và cơ quan chức năng phải xem xét ngay.

Tuy nhiên nếu 10 cổ đông, mỗi người được nhờ đứng tên sở hữu suýt soát 01% thì đã thành số gần gấp đôi giới hạn đối với một cổ đông cá nhân, mà không phải công khai, tức không bị giám sát chặt.

Ngoài ra, quản nguồn gốc sở hữu cũng cần xem xét đến cá nhân là người sở hữu cuối cùng của ngân hàng, tương tự như “Công ty mẹ tối cao của tập đoàn” không bị sở hữu bởi bất kỳ pháp nhân nào khác theo như quy định của Luật quản lý thuế năm 2019.

Tóm lại, luật chặt hay lỏng thì điều quan trọng nhất vẫn là các ngân hàng, cổ đông và khách hàng phải tự mình tôn trọng các nguyên tắc, chuẩn mực, đề cao việc tuân thủ, đồng thời công tác thanh tra, giám sát phải được tăng cường, thật sự nghiêm túc, kịp thời, thì mới bảo đảm được hiệu quả và hiệu lực của pháp luật ngân hàng.

Do đó với nhiều lần tăng vốn hàng nghìn tỷ đồng, với mức tăng hàng nghìn lần, nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ thì rất dễ xảy ra tình trạng nguồn vốn từ sở hữu chéo, liên kết, bắt tay nhau.

Nếu theo đúng quy định của luật, cổ đông lớn của ngân hàng là cá nhân chỉ có một mức duy nhất là 05%, vì trên 05% thì không được phép, mà dưới 05% thì không phải là cổ đông lớn. Trên thực tế thì không biết, nhưng trên giấy tờ, các cổ đông cá nhân đều lựa chọn là cổ đông nhỏ, sở hữu dưới 05%.

Thứ năm về lộ trình siết giảm. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 đã siết đồng thời giới hạn sở hữu vốn và cấp dụng. Lúc đầu định giảm sở hữu của mỗi cổ đông cá nhân xuống 03%, nhưng cuối cùng vẫn giữ nguyên 05% và chỉ giảm đối với mỗi nhóm cổ đông và người có liên quan từ 20% xuống 15%. Tất nhiên người có liên quan thì đã bị thắt chặt hơn nhiều.

Nhóm phóng viên

————-

VietTimes (Kinh doanh) ngày 05-12-2024:

https://viettimes.vn/xu-ly-tinh-trang-so-huu-ngan-hang-vuot-tran-nhu-the-nao-post180709.html

(1.347/1.872)

Bài viết 

311. Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế...

Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế bất động sản. [caption id="attachment_42152"...

Bình luận 

436. Bình luận về Luật siêu dễ - Luật Quản lý tài...

Bình luận về Luật siêu dễ - Luật Quản lý tài sản công. Cố vấn: Luật...

Phỏng vấn 

4.413. "Nợ xấu ngân hàng tiếp tục bị che mờ...

"Nợ xấu ngân hàng tiếp tục bị che mờ nếu gia hạn Thông tư 02". (VNF)...

Trích dẫn 

3.969. Không gia hạn Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, nợ...

Không gia hạn Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, nợ xấu gia tăng nhưng tốt...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 235,557