Chuyên gia “hiến kế” giải bài toán kiểm soát sở hữu vượt trần tại ngân hàng.
(KTCK) – Sáng nay 5/12, tại khách sạn Hòa Bình (Hà Nội), Tạp chí điện tử VietTimes phối hợp với CLB Café Số thuộc Hội Truyền thông số Việt Nam tổ chức hội thảo “Xây dựng các tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam”, đề cập đến các vấn đề nóng hiện nay như xử lý tỷ lệ sở hữu ngân hàng vượt trần, sở hữu chéo, minh bạch hóa thông tin…
Lịch sử kiểm soát, quản lý sở hữu tại các ngân hàng
Hội thảo “Xây dựng các tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam” quy tụ các chuyên gia kinh tế, tài chính và luật sư hàng đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, cùng doanh nhân và đại diện các cơ quan ban ngành. Với nội dung thảo luận sâu rộng, sự kiện mang lại nhiều giá trị thực tiễn, đóng góp tích cực vào việc xây dựng nền tảng chính sách và pháp luật về ngân hàng thương mại và tập đoàn tài chính tại Việt Nam trong thời gian tới.
Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI – mở đầu hội thảo với tham luận về lịch sử kiểm soát và quản lý sở hữu tại các ngân hàng. Ông cho biết, Việt Nam bắt đầu có ngân hàng cổ phần từ cuối thập niên 1980. Ở thời điểm đó, vốn của nền kinh tế rất ít ỏi, không chỉ vốn cho vay đối với khách hàng mà ngay cả vốn mua cổ phần của ngân hàng. Ví dụ, Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải (MSB) có mức vốn điều lệ 40 tỷ đồng, lớn nhất tại thời điểm đó.
Giai đoạn đó, nếu giữ các ngân hàng và giữa ngân hàng với doanh nghiệp không sở hữu lẫn vốn điều lệ của nhau thì không thể đáp ứng được nhu cầu rất tối thiểu của nền kinh tế. Vì vậy, hình thức sở hữu chéo xuất hiện và nở rộ, một đồng vốn đồng thời tạo thành vốn điều lệ của nhiều ngân hàng và công ty khác.
Nghị định số 82/1998/NĐ-CP quy định, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị có mức vốn pháp định từ 50 -70 tỷ đồng, còn Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thì chỉ yêu cầu vốn pháp định 5 tỷ đồng.
Nghị định số 141/2006/NĐ-CP đã nâng vốn pháp định lên rất đột ngột đối với tất cả các ngân hàng cổ phần, cụ thể đến 2008 phải là 1.000 tỷ đồng và đến năm 2010 phải là 3.000 tỷ đồng. Chỉ trong vài năm, vốn pháp định của ngân hàng cổ phần tăng từ vài chục đến vài trăm lần, từ 50, thậm chí từ 5 tỷ lên 1.000 rồi 3.000 tỷ. Để có đủ vốn tối thiểu, các ngân hàng và cổ đông buộc phải tiếp tục liên kết bắt tay nhau.
Trong bối cảnh đó, các ngân hàng thương mại cổ phần như MSB, không chỉ cần đáp ứng mức vốn pháp định mà còn phải đẩy mạnh tăng vốn điều lệ vượt xa yêu cầu pháp lý để tồn tại và phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng sự cạnh tranh gay gắt khiến việc đảm bảo vốn điều lệ thực có trở thành yếu tố sống còn. Đến nay, nhiều ngân hàng đã nâng vốn điều lệ lên mức hàng chục nghìn tỷ đồng.
VPBank và Techcombank là 2 nhà băng có vốn điều lệ lớn nhất nhì hệ thống ngân hàng TMCP
Một thực tế được ông Đức nêu rõ là nguồn vốn tăng thêm tại các ngân hàng hiện nay chủ yếu đến từ cá nhân, đặc biệt là các “đại gia” có khả năng tài chính lớn. Trong khi các ngân hàng thương mại Nhà nước và cổ đông Nhà nước gặp khó khăn trong việc tăng vốn, thậm chí phải thoái vốn, thì các cá nhân lại gia tăng tỷ lệ sở hữu.
Xu hướng này không chỉ xuất phát từ nhu cầu nắm quyền kiểm soát mà còn bởi lợi ích lớn từ việc sở hữu cổ phần ngân hàng. Nhiều trường hợp, các công ty cũng thực chất tăng vốn bằng nguồn tiền từ các cá nhân đứng sau.
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 đã đưa ra lộ trình siết chặt giới hạn sở hữu. Ban đầu, dự thảo định giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông cá nhân từ 5% xuống 3%, nhưng cuối cùng giữ nguyên 5%, chỉ giảm giới hạn đối với nhóm cổ đông và người liên quan từ 20% xuống 15%. Tất nhiên người có liên quan thì đã bị thắt chặt hơn nhiều.
Một điểm quan trọng khác trong Luật 2024 là quy định về minh bạch thông tin sở hữu. Các cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ ngân hàng trở lên phải được công khai danh tính. Điều này giúp giám sát hiệu quả hơn, đặc biệt đối với các trường hợp bất thường, như một cá nhân không thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân nhưng sở hữu 1% vốn ngân hàng, hoặc các doanh nghiệp liên quan đến giới chủ vay nhiều tiền từ ngân hàng.
Tuy nhiên, ông Đức cũng lưu ý rằng việc giám sát sẽ khó khăn nếu có tình trạng nhờ người khác đứng tên sở hữu cổ phần ở mức suýt soát 1%, dẫn đến khả năng vượt giới hạn cho phép mà không bị phát hiện.
Do đó, với nhiều lần tăng vốn hàng nghìn tỷ đồng, với mức tăng hàng nghìn lần, nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ thì rất dễ xảy ra tình trạng nguồn vốn từ sở hữu chéo, liên kết, bắt tay nhau.
Tập đoàn tài chính không bền vững, nền kinh tế không thể phát triển bền vững
Ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam, cho rằng một nền kinh tế không thể phát triển bền vững nếu thiếu các tập đoàn tài chính vận hành hiệu quả và minh bạch.
Ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam
Theo ông Hòe, mô hình tập đoàn tài chính (Financial Business Group) thường bao gồm một công ty mẹ không phải là định chế tài chính nhưng sở hữu một hoặc nhiều định chế tài chính là công ty con, cùng các công ty con khác. Trong hệ thống này, công ty mẹ tận dụng được doanh thu, năng lực cạnh tranh và dịch vụ trọn gói từ các công ty con, trong khi các công ty con hưởng lợi từ nguồn lực, uy tín và thương hiệu của công ty mẹ.
Tuy nhiên, ông Hòe chỉ ra những bất cập đáng lo ngại. Hệ thống sở hữu chéo chằng chịt, đặc biệt trong môi trường thiếu minh bạch, gây khó khăn lớn cho việc kiểm soát. Bên cạnh đó, hiện tượng tuồn vốn dễ dãi cho các công ty sân sau, ưu đãi nội bộ nhằm lách luật, và rủi ro lan truyền trong hệ thống khiến việc quản lý các tập đoàn tài chính trở nên phức tạp và tiềm ẩn nguy cơ bất ổn.
Thống kê tài sản vốn của 11 tập đoàn tài chính lớn của Việt Nam cho thấy, tổng tài sản gần 14 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 67% toàn hệ thống tập đoàn tài chính. Dư nợ 9,9 triệu tỷ đồng chiếm 67,3% tổng dư nợ tín dụng.
Trong đó, có 10 tập đoàn tài chính do ngân hàng thương mại là công ty mẹ; 1 tập đoàn tài chính do công ty bảo hiểm là công ty mẹ. Hệ sinh thái của tập đoàn tài chính có vốn Nhà nước đơn giản hơn, thuần về lĩnh vực tài chính.
Theo ông hòe, hệ sinh thái tập đoàn tài chính vốn Nhà nước thường tập trung vào lĩnh vực tài chính và có cơ cấu đơn giản hơn. Ngược lại, hệ sinh thái của các tập đoàn tài chính tư nhân phức tạp hơn nhiều, với các công ty con hoạt động trong các lĩnh vực phi tài chính, gồm cả bất động sản
Xử lý sở hữu vượt trần ngân hàng như thế nào?
Hội thảo tiếp tục với phần thảo luận về vấn đề sở hữu vượt trần tại các ngân hàng, một chủ đề thu hút nhiều ý kiến sôi nổi từ các chuyên gia và đại diện. Phiên thảo luận được điều phối bởi ông Lê Đức Sảo, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông Số Việt Nam, và ông Nguyễn Bá Kiên, Tổng Biên tập Tạp chí điện tử VietTimes.
Ông Lê Đức Sảo, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông Số Việt Nam (bên trái), và ông Nguyễn Bá Kiên, Tổng Biên tập Tạp chí điện tử VietTimes (bên phải) điều phối phiên thảo luận
Trước câu hỏi từ ông Nguyễn Bá Kiên về hiệu quả của quy định trần sở hữu (10% đối với tổ chức, 15% đối với cá nhân và người có liên quan) trong việc giải quyết sở hữu chéo và lũng đoạn ngân hàng, TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh tầm quan trọng của tính minh bạch theo yêu cầu của Luật Các tổ chức tín dụng mới.
Ông cho rằng việc kiểm tra nguồn gốc vốn góp là cần thiết để đảm bảo minh bạch trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, ông cũng bày tỏ lo ngại rằng mức độ minh bạch chung của xã hội Việt Nam hiện nay chưa đủ để triển khai hiệu quả các quy định này.
Về giám sát và thanh tra hoạt động ngân hàng, ông Lê Xuân Nghĩa nhận thấy công tác giám sát và thanh tra hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều bất cập. Ông đưa ra ví dụ về trường hợp của Ngân hàng SCB, tồn tại trong nhiều năm trong tình trạng không minh bạch mà không ai xử lý. Ông Nghĩa nói rằng nếu không có cải cách thực sự về hành chính và pháp lý, thì tình trạng này sẽ khó có thể thay đổi.
Về tỷ lệ an toàn vốn và lộ trình tuân thủ, TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh rằng một số ngân hàng hiện nay vẫn chưa đáp ứng các tỷ lệ an toàn vốn theo quy định. Ông cho rằng việc đưa ra lộ trình kéo dài để tuân thủ là không hợp lý, thay vào đó, các ngân hàng nên được yêu cầu thực hiện ngay trong khoảng thời gian 6 tháng đến 1 năm.
Ông cũng cảnh báo về khả năng các ngân hàng lách luật, như phát hành trái phiếu trong thời gian bị thanh tra, điều này có thể làm giảm hiệu quả của các biện pháp quản lý.
TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh tầm quan trọng của tính minh bạch theo yêu cầu của Luật Các tổ chức tín dụng mới
TS Lê Xuân Nghĩa đánh giá Luật Các tổ chức tín dụng mới đã mang lại những điểm tích cực, đặc biệt trong việc tăng cường tính minh bạch và kiểm soát hệ thống ngân hàng. Tuy vậy, nếu không có các cải cách đồng bộ về hành chính, pháp lý và nâng cao hiệu quả giám sát, thanh tra, việc thực hiện sẽ gặp không ít trở ngại. Một số kiến nghị chính gồm:
Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn và yêu cầu các ngân hàng thương mại phải tuân thủ Luật Tổ chức tín dụng trong vòng 6 tháng đến 1 năm.
Cần có cải cách thực sự về hành chính, pháp lý và nâng cao hiệu quả giám sát, thanh tra để Luật Tổ chức tín dụng mới có thể được thực thi một cách nghiêm túc.
Không nên có lộ trình dài cho các ngân hàng vượt chuẩn về tỷ lệ an toàn vốn, mà phải yêu cầu các ngân hàng tuân thủ ngay.
Khi được hỏi về các nội dung cần minh bạch trong hoạt động ngân hàng, TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh rằng dù hoạt động góp vốn của các ngân hàng thương mại đã trở nên minh bạch hơn trong thời gian gần đây, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần cải thiện, đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay và sử dụng nguồn vốn.
Theo ông Nghĩa, một số khía cạnh cần được làm rõ bao gồm:
Vai trò của thanh tra, kiểm soát: Cần tập trung vào công tác thanh tra, kiểm soát để làm rõ các vấn đề thiếu minh bạch, đặc biệt là việc cho vay liên quan đến các bên có liên quan.
Các quy định về vốn: Các quy định về tỷ lệ vốn cấp 2 cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là việc sử dụng nguồn vốn vay, đặc biệt là việc cho vay các bên liên quan.
Nêu kinh nghiệm quốc tế về quản lý các ngân hàng, TS Nguyễn Trí Hiếu cho biết, ở Mỹ, tỷ lệ sở hữu của pháp nhân tại ngân hàng được quy định thấp hơn so với tỷ lệ sở hữu của cá nhân. Lý do là nhà chức trách Mỹ cho rằng pháp nhân dễ thao túng ngân hàng hơn cá nhân, do có khả năng điều hành và chi phối mạnh mẽ.
TS Nguyễn Trí Hiếu cho biết, ở Mỹ, tỷ lệ sở hữu của pháp nhân tại ngân hàng được quy định thấp hơn so với tỷ lệ sở hữu của cá nhân, trong khi ở Việt Nam thì ngược lại. |
Trong khi đó, tại Việt Nam, tỷ lệ sở hữu của cá nhân lại được quy định thấp hơn so với pháp nhân. Điều này phản ánh đặc thù văn hóa doanh nghiệp tại Việt Nam, nơi cá nhân thường có quyền lực lớn trong các doanh nghiệp.
Dựa trên thực tế này, ông Hiếu đề xuất cần có chế tài nghiêm ngặt hơn trong việc áp dụng và thực thi các quy định về tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng. Cụ thể, ông cho rằng Nghị định hướng dẫn Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 có thể đưa ra chế tài mạnh, ví dụ như nếu ngân hàng vi phạm quy định liên tục, chẳng hạn 3 lần, thì sẽ bị rút giấy phép hoạt động. Ông Hiếu cũng nhấn mạnh rằng để làm gương cho toàn thị trường, một số ngân hàng có vi phạm cần phải bị xử phạt mạnh tay, nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong hệ thống ngân hàng.
Phương Nguyễn
————-——–
Kinh tế Chứng khoán (Ngân hàng) 06-12-2024:
(806/2.587)