313. Giải pháp hiệu quả cho các gói kích cầu kinh tế

(VITV) – Về cơ bản, nền kinh tế hiện nay cần phải có những giải pháp hỗ trợ để vượt qua giai đoạn trì trệ. Tuy nhiên, kích cầu hay không kích cầu vẫn đang là câu chuyện còn nhiều tranh cãi trong giai đoạn hiện nay. Quyết định cuối cùng tất nhiên vẫn thuộc về các cơ quan chức năng. Song, nếu có một gói kích cầu được đưa ra thì cũng cần phải tính đến giải pháp sao cho có hiệu quả thực sự đối với nền kinh tế, tháo gỡ được đúng nút thắt về hàng tồn kho, nợ xấu và tăng trưởng kinh tế.

Đặt giả thiết nếu có một gói kích cầu mới được tung ra vào lúc này thì cần hiểu rằng chính phủ cần phải có biện pháp kích thích tổng cầu tăng lên một cách thực sự. Một bài học tồn tại của gói kích cầu năm 2009, theo nhiều chuyên gia, gói 170 nghìn tỷ kích cầu khi đó bị sử dụng sai mục đích dẫn đến việc kích cung là chủ yếu. Trong khi nhu cầu tiêu dùng tạo giá trị cho nền kinh tế lại không có tác động. Chính vì thế, cần phải xác định rõ mục tiêu kích cầu ngay từ đầu để nội dung này xuyên suốt cả quá trình thực hiện. Tức là nhu cầu hàng hóa phải tăng lên.

Khi được phóng viên VITV hỏi, ông Trương Thanh Đức, chuyên gia tài chính ngân hàng cho biết, trở lại gói kích cầu 30.000 tỷ bất động sản vừa rồi, thì tôi cho rằng về thực chất không phải kích cầu mà cung là chính, kích cầu là phụ thôi. Vì thế số tiền nhiều hay ít có tác dụng không đáng kể thậm chí lại gây ra tác dụng ngược. Kích cầu hiện nay chúng ta phải làm thế nào đó để gây ra hiệu ứng lan tỏa, có thể không lớn nhưng có tác dụng về tâm lý để nhu cầu tăng lên, hàng hóa được tiêu thụ”.

Kích thích tổng cầu có nhiều cách, bình thường có thể thông qua con đường tín dụng nhưng tín dụng hiện nay hoàn toàn bế tắc. Thứ hai là bơm vốn qua thị trường chứng khoán. Nhưng kênh này hiện nay không thu được hiệu quả. Vì thế, kích cầu không có nghĩa là phải bơm tiền ra mà cần làm tăng vòng chu chuyển của dòng tiền để sinh lời một cách hiệu quả nhất.

Ông Đức cho biết: “Số lượng cụ thể thì tôi không rõ. Nhưng tôi nghĩ biện pháp, cách thức là không theo xu hướng cung thêm nhiều ra mà tăng chu chuyển của dòng tiền tệ, kích thích mua bán, giao lưu, trao đổi hàng hóa tiêu dùng nó mới có tác dụng thực sự”.

Nếu giải quyết được như vậy, nghĩa là một mũi tên trúng được 2 đích. Thứ nhất là khiến nền kinh tế hồi phục, nợ xấu giảm đi bởi các doanh nghiệp bán được hàng sẽ có thu nhập trả ngân hàng, sau đó thấy thị trường có nhu cầu thì lại vay vốn sản xuất và dòng tiền sẽ lưu thông trở lại. Thêm vào đó, việc giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện cũng là một khâu hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy, nhiều chủ trương và biện pháp đưa ra hết sức đúng đắn song trong quá trình thực hiện khâu giám sát còn lỏng lẻo dẫn đến hiệu quả không cao gây mất niềm tin cho thị trường.

Ông Nguyễn Trí Hiếu (ảnh), chuyên gia tài chính ngân hàng cho biết: “Có rất nhiều doanh nghiệp họ vay với lãi suất 4%. Quá tốt. Nhưng ông ấy dùng tiền đó gửi vào ngân hàng và hưởng lãi suất tiền gửi để ăn lãi suất chênh lệch. Do thiếu kiểm soát nên chúng ta để một số doanh nghiệp làm như vậy. Rồi một số doanh nghiệp đáng lý ra phải dành các doanh nghiệp nhỏ, yếu, cần hỗ trợ thì phần lớn số tiền trong các gói đó lại hỗ trợ cho doanh nghiệp mạnh và có quan hệ tốt với ngân hàng”.

Một yếu tố nữa cũng rất cần quan tâm đó là việc chống tham nhũng. Nhìn lại gói kích cầu năm 2009, nhiều chuyên gia nhận định gói kích cầu khi đó không hiệu quả vì lợi ích nhóm, về những vấn đề liên quan đến tham nhũng. Vì thế, nếu tung ra một gói kích cầu tiếp theo trong giai đoạn hiện nay thì việc nói không với tham nhũng là điều kiện tiên quyết.

Ông Hiếu cho hay: “Một trong những tiền đề để bất cứ gói hỗ trợ nào được sử dụng một cách đúng và hiệu quả là chúng ta phải quyết liệt chống tham nhũng. Nếu chúng ta không quyết liệt chống tham nhũng để những bàn tay tham nhũng đó thọc vào trong những gói hỗ trợ đó thì có lẽ chỉ một phần số tiền được tới tay người dân, còn rất nhiều số tiền đó nằm trong bàn tay của tham nhũng. Thành ra vấn đề chống tham nhũng là vấn đề tiên quyết cho tất cả gói hỗ trợ. Nếu chúng ta không tận diệt được tham nhũng thì có lẽ chúng ta chưa nên đưa ra gói hỗ trợ”.

7 tháng năm 2013 đã trôi qua, những dự báo về tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn chỉ xoay quanh mức 5,2 – 5,5%, trong khi đó tổng giá trị tồn kho của doanh nghiệp phi tài chính đạt mức trên 210 000 tỷ, tăng 11% so với năm 2012, trong 6 tháng năm 2013 khoảng 54% số doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn ngân hàng thì trong số này chỉ có khoảng 36% được ngân hàng đáp ứng vốn vay. Tình hình kinh tế vĩ mô và doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn cần tháo gỡ và nếu có một gói kích cầu được tung ra hy vọng những giải pháp trên sẽ cần được lưu ý.

TALK: XUNG QUANH CÂU CHUYỆN GÓI KÍCH CẦU

  1. Hiện nay có nhiều ý kiến trái chiều về việc Chính phủ nên hay không nên tung ra 1 gói kích cầu kinh tế. Ý kiến của ông thế nào về vấn đề này? Tại sao?

– Nên kích cầu, đó là mấu chốt của tăng trưởng và phát triển.

– Kích cầu là giải pháp muôn thuở của kinh tế thị trường.

  1. Nếu tung ra gói kích cầu thì quy mô ra sao thưa ông?

– Quy mô không cần quá lớn, mà quan trọng là gây hiệu ứng lan toả, kích thích được sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.

– Hạn chế tăng cung tiền mới.

  1. Nhưng ông hình dung Chính phủ sẽ lấy tiền ở đâu ra để thực hiện việc này trong khi nguồn thu hiện nay rất khó khăn, mà giới hạn bội chi phải tuân thủ ngặt nghèo?

– Ngân sách giật gấu vá vai, nhưng vẫn còn sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, không cần thiết.

– Dừng dự án vô bổ, chưa cần thiết, dồn vốn hoàn thành các dự án nhanh chóng đi vào khai thác làm ra của cải vật chất.

– Bán cổ phần của nhà nước tại DN, không giải ngân cho DNNN nữa.

– Phải sử dụng nguồn thu trong tương lai, phát hành trái phiếu, vay nợ, nếu cần. Vấn đề là vay thế nào và hiệu quả ra sao. Vay nợ là không tốt, nhưng đồng thời cũng phải có sự tin cậy nhất định mới có thể vay được.

– Sử dụng các công cụ, biện pháp để kích thích người dân và doanh nghiệp mạnh dạn chi tiêu, giao dịch, quay vòng vốn, thay vì giữ tiền trong két hoặc những hình thức khác không tham gia vào chu trình sản xuất, kinh doanh

  1. Trong giai đoạn 2008 – 2009, VN cũng đã từng có 1 gói kích cầu, và bên cạnh những tác dụng thì có quá nhiều bất cập xảy ra. Nếu lần này áp dụng, thì cơ cấu phân bổ sẽ ra sao? Phải có những điểm khác biệt nào để đạt hiệu quả cao nhất?

– Gói kích cầu 2008-2009 không thật sự thành công, vì cách làm và hiệu quả thật sự mà nó đem lại.

– Khi đó thực chất không phải là kích cầu, mà là kích cung, thúc đẩy sản xuất, nhưng nó lại có hiện tượng đầu tư tràn lan vào những hoạt động kém hiệu quả và gây ra lạm phát cao.

– Gói 30.000 tỷ đồng, kích cầu thì ít mà kích cung thì nhiều.

– Kích cầu phải nhằm đẩy mạnh chi tiêu vào hàng hoá, dịch vụ dân sinh tiêu dùng trực tiếp, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống, từ đó thúc đẩy sản xuất, kinh doanh quay vòng nhanh dòng vốn.

– Giảm thuế suất và lệ phí trước bạ ô tô, xe máy, giảm thuế GTGT. Tăng thì không được, giữ nguyên cũng chẳng thu được bao nhiêu, giảm thì còn có cơ hội thu được nhiều hơn.

– Không giảm trực tiếp bằng tiền mặt, mà bằng cách khác, như thông qua phiếu mua hàng hoá tiêu dùng chẳng hạn.

– Chắc chắn ảnh hưởng đến lạm phát, nhưng chỉ ảnh hưởng ít, nếu ảnh hưởng nhiều thì phải xem lại thủ phạm là đầu tư công, tung tiền ra mà hiệu quả thì thấp, lãng phí thì nhiều, hậu quả thì lớn, tác dụng tai hại.

Theo Kiều Trinh – Tiến Thịnh

(241/1.055)


VITV (mục tài chính – ngân hàng) 29-7-2013:\

(PV 19-7-2013 – đã phát trên TV)

http://www.vitv.vn/Tintaichinhnganhang/Detailnews.aspx?newsid=27895

 

 

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,969