343. Khó nhận dạng pháp nhân trong Bộ luật Dân sự

(ĐBND) – Xác nhận chủ thể quan hệ dân sự là pháp nhân hay không là một điều đặc biệt quan trọng trong giao dịch, bởi đây là chủ thể quan trọng nhất trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, việc xác định hoàn toàn không đơn giản, nhất là đối với các tổ chức phi kinh tế, trong đó có các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước. Nguyên nhân có phải do những dấu hiệu chưa được quy định đầy đủ tại Bộ luật Dân sự (BLDS).

Điều kiện hay yếu tố nhận biết

Pháp nhân là một trong những chủ thể quan trọng của pháp luật dân sự (Điều 84B) và có mặt trong phần lớn các giao dịch dân sự, nhất là đối với doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác định tư cách của pháp nhân là hết sức quan trọng. Điều 84 đã quy định về các điều kiện để được công nhận là pháp nhân, bao gồm: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia pháp lý, pháp chế doanh nghiệp thì cách quy định có vẻ giống với quy phạm pháp luật hành chính khi đưa ra các yếu tố để công nhận pháp nhân (có thể hiểu là nếu đáp ứng đủ các điều kiện này thì mới được Nhà nước công nhận). Tức là muốn xác định tổ chức nào đó có hay không tư có tư cách pháp nhân, cần tìm hiểu xem tổ chức đó có đáp ứng đủ 4 yêu cầu nêu trên. Trong khi yêu cầu đặt ra đối với BLDS là phải đưa ra được các yếu tố để nhận biết pháp nhân với tư cách là một chủ thể của luật dân sự. Quy định này cũng chưa làm rõ với các yếu tố quan trọng là pháp nhân phải được thành lập bởi các chủ thể khác của luật dân sự; đăng ký hoặc có quyết định thành lập của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Kể từ thời điểm được đăng ký hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập, pháp nhân mới có đủ tư cách là chủ thể để tham gia vào quan hệ dân sự.

Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế, Bộ Tư pháp Dương Đăng Huệ thừa nhận, hiện quy định về phân loại pháp nhân đang theo hướng liệt kê (cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; tổ chức kinh tế; tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp…). Chính vì thế, có sự trùng lặp trong quy định về phân loại pháp nhân, chưa có sự khác biệt về bản chất pháp lý giữa các loại pháp nhân.

Theo luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI 4 điều kiện nêu trên là không hợp lý và không đặc định. Những mâu thuẫn ngay trong các điều luật, chẳng hạn trong giao dịch dân sự pháp nhân hoàn toàn được ủy quyền cho cá nhân và pháp nhân khác. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 143 “Người đại diện theo ủy quyền” đã quy định “Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch”, cho nên nhiều tổ chức công chức và tòa án dựa vào chữ “người” cho rằng, cá nhân, pháp nhân chỉ được ủy quyền cho cá nhân, mà không được ủy quyền cho pháp nhân hoặc tổ chức khác. Hơn nữa, tại Khoản 1, Điều 583 quy định: “Bên được ủy quyền chỉ được ủy quyền lại cho người thứ 3, nếu được bên ủy quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định”. Chiếu theo quy định này, nhiều nơi không chấp nhận giao dịch được ủy quyền tiếp cho người thứ 3 (và sau người thứ 3 trở đi) mặc dù được các cấp ủy quyền trước đó đồng ý.

Những gợi ý xác thực

Luật sư Lê Phan Thùy Anh, Công ty Luật TNHH Quốc tế cho rằng, mục đích của BLDS là đưa ra được các căn cứ để nhận biết pháp nhân với tư cách là một chủ thể tham gia các giao dịch dân sự. Trên thực tế, một số tổ chức ghi trong Điều lệ hoặc Quyết định thành lập là “có tư cách pháp nhân”. Điều này dẫn đến tình trạng không làm rõ được tiêu chí xác định tư cách pháp nhân của chủ thể khi tham gia vào giao dịch dân sự là căn cứ vào quy định của pháp luật hay giấy tờ pháp lý của chủ thể đó. Luật sư Lê Phan Thùy Anh kiến nghị, dấu hiệu xác định pháp nhân bao gồm “Là tổ chức được đăng ký hoạt động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”.

Ở góc độ khác, Phó trưởng ban Dân chủ pháp luật, Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam Vũ Thị Minh Hồng cho rằng, việc không quy định rõ ràng trách nhiệm cá nhân trong chế định pháp nhân của BLDS và các đạo luật chuyên ngành khác dẫn đến không thể áp dụng chế định nào để xử lý khi có vi phạm. Nhiều đơn vị sự nghiệp của các bộ rầm rộ ra đời đã trở thành “sân sau” của bộ, gây nên sự bất bình đẳng đối với các pháp nhân nghề nghiệp tư (hoạt động tự chủ, ngân sách không cấp). Hiện nay, nhiều hệ thống pháp luật đã chia pháp nhân làm 2 loại (pháp nhân vì lợi ích cộng đồng và pháp nhân vì lợi nhuận). Pháp nhân vì lợi ích cộng đồng tồn tại ở dạng Hội – có hội viên và Quỹ – không có hội viên. Pháp nhân vì lợi nhuận tồn tại dưới dạng công ty, nhà nước, khu công nghiệp, đồn điền, siêu thị. Từ góc độ này, bà Hồng đề xuất, bộ luật này không áp dụng đối với các pháp nhân chính trị, nhà nước và tôn giáo.

Từ những gợi ý nên trên cho thấy, BLDS sửa đổi cần quy định theo hướng có khái niệm đầy đủ hơn về pháp nhân, trong đó có dấu hiệu được thành lập bởi các chủ thể của luật dân sự và được đăng ký hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập. Thời điểm đăng ký hoặc ra quyết định thành lập phải được coi là thời điểm hình thành của pháp nhân; đồng thời cần phân loại pháp nhân dựa trên mục đích, tiêu chí thành lập (vì lợi nhuận hay không lợi nhuận).

Phan Cẩm Tú

—————–

Đại biểu Nhân dân 24-03-2013:

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=275760

 

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,909