Chuyển giao ngân hàng yếu kém cần thực chất hơn.
(TN) – Các chuyên gia cho rằng, việc chuyển giao bắt buộc các ngân hàng yếu kém hiện nay chỉ là giải pháp tạm thời, nhằm “mua thời gian”. Để quá trình này thật sự hiệu quả, việc nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và quản trị rủi ro là điều vô cùng cấp thiết.
![]() |
Giao dịch tại Ngân hàng Oceanbank. Ảnh: NGUYỆT ANH |
Mới đây, bốn ngân hàng yếu kém đã được chuyển giao bắt buộc cho các ngân hàng thương mại. Cụ thể, Vietcombank tiếp nhận CBBank và đổi tên thành ngân hàng số VCBNeo; HDBank nhận chuyển giao DongABank, đổi tên thành Vikki Bank. MB tiếp nhận Oceanbank và tái cấu trúc thành ngân hàng số MBV; GPBank được chuyển giao về VPBank. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, cách tiếp cận của thời điểm hiện tại không khác biệt so với cách xử lý ngân hàng yếu kém trong 15 năm qua.
“Bình mới, rượu cũ”
Tại Hội thảo “Tái cơ cấu ngân hàng, làm sao đạt hiệu quả tối đa?”, ông Nguyễn Xuân Thành, giảng viên Chính sách công tại Đại học Fulbright Việt Nam, đã chia sẻ rằng, khác với nhiều quốc gia, Việt Nam muốn giải quyết vấn đề các ngân hàng yếu kém mà không sử dụng ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong suốt 15 năm qua, giải pháp chủ yếu của chúng ta là “mua thời gian”.
Lý giải nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém của các ngân hàng này, ông Nguyễn Xuân Thành cho rằng, do sự thao túng từ nhóm cổ đông lớn. Những cổ đông này kiểm soát ngân hàng thông qua tỷ lệ sở hữu cao và mô hình sở hữu chéo, làm suy yếu các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Điều này tạo điều kiện cho ngân hàng dễ dàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và dự án trong cùng “hệ sinh thái”, dù các hoạt động này thường kém hiệu quả. Kết quả là tín dụng biến thành nợ xấu, buộc các ngân hàng phải tái cơ cấu để tránh nguy cơ đổ vỡ.
“Các ngân hàng yếu kém sáp nhập và hợp nhất để tạo ra một ngân hàng lớn hơn, nhưng vẫn giữ nguyên sự yếu kém. Nhóm cổ đông thiếu năng lực, nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém, vẫn nắm quyền kiểm soát. Khi tái cơ cấu và sáp nhập mà không thay đổi cơ cấu cổ đông, vấn đề gốc rễ sẽ không được giải quyết”, ông Nguyễn Xuân Thành chia sẻ.
Dẫn chứng một thí dụ điển hình về “sai lầm” trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng, TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính, chia sẻ về việc Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) được thành lập dựa trên sự hợp nhất tự nguyện giữa ba ngân hàng: SCB, Ngân hàng TMCP Đệ Nhất (Ficombank) và Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank).
Sau 10 năm tái cơ cấu, tính đến ngày 30/9/2021, tổng tài sản của SCB đạt 673.000 tỷ đồng, vốn điều lệ hơn 20.000 tỷ đồng, với 239 điểm giao dịch, mạng lưới phủ rộng khắp 28 tỉnh, thành phố và hơn 7.000 nhân viên. Tuy nhiên, đằng sau sự tăng trưởng mạnh mẽ này là thực tế SCB đã bị phát hiện trở thành công cụ tài chính phục vụ cho bà Trương Mỹ Lan và Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, dẫn đến một vụ án lớn chưa từng có trong lịch sử ngành tài chính Việt Nam.
Với các “ngân hàng 0 đồng”, kể từ khi được mua lại từ năm 2015, OceanBank và Ngân hàng Xây dựng đã phải đối mặt với khoản lỗ lũy kế lên đến hàng nghìn tỷ đồng, chủ yếu do các khoản vay đối với các công ty sân sau, khiến vốn chủ sở hữu của các ngân hàng này âm tới hàng nghìn tỷ đồng. Sau 10 năm, tính đến năm 2024, cả bốn ngân hàng này vẫn không thể hồi phục và tiếp tục thua lỗ.
TS Hiếu cũng bày tỏ lo ngại về vấn đề minh bạch và tuân thủ các nguyên tắc tài chính khi số liệu tài chính của các ngân hàng yếu kém không được hợp nhất vào đơn vị nhận chuyển nhượng. Trong khi đó, các ngân hàng nhận chuyển nhượng không phải chịu trách nhiệm đối với ngân hàng chuyển giao. Đặc biệt, có thể xảy ra tình trạng các ngân hàng mẹ “đẩy” các tài sản xấu về ngân hàng con, gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng.
Cùng quan điểm, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cho rằng, việc chuyển giao bắt buộc 4 ngân hàng gần đây không khác biệt so với phương án “Ngân hàng Nhà nước mua lại 0 đồng” từng được áp dụng hàng chục năm trước. Đây chỉ là giải pháp tình thế, không phải giải pháp lâu dài. Thực tế cho thấy, đến nay các “ngân hàng 0 đồng” vẫn thiếu thông tin công khai về tình hình tài chính và hoạt động.
Cần giải pháp dài hạn
Dựa trên kinh nghiệm từ quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, ông Thành cho rằng Ngân hàng Nhà nước cần giữ vai trò “người cho vay cuối cùng” để bảo đảm thanh khoản và duy trì sự ổn định cho hệ thống tài chính. Quá trình tái cơ cấu cần được thực hiện dựa trên nguồn lực tài chính thực chất, có thể đến từ Nhà nước hoặc các nhà đầu tư tư nhân, thay vì chỉ mang tính hình thức.
Một yếu tố quan trọng khác là cần giảm dần tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng để nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản trị. Đồng thời, cần xây dựng một hệ thống thanh tra và giám sát có tính hợp nhất cao, đủ năng lực kiểm soát đồng thời hoạt động của các tổ chức tín dụng và thị trường vốn, từ đó phát hiện sớm và ngăn ngừa các rủi ro tiềm ẩn.
Trong khi đó, Luật sư Trương Thanh Đức cho rằng, các nhà quản lý cần tìm kiếm những giải pháp dài hạn như hợp nhất, sáp nhập, hoặc thậm chí tái cổ phần hóa, và khi cần thiết, là phá sản, để tránh lãng phí thời gian mà không đạt được hiệu quả trong tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém.
Với kinh nghiệm quốc tế, TS Nguyễn Trí Hiếu cho biết, việc phá sản ngân hàng ở Mỹ là chuyện diễn ra thường xuyên. Quy trình sáp nhập và tái cơ cấu các ngân hàng tại Mỹ được thực hiện dưới sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan quản lý liên bang và tiểu bang, bao gồm FED, FDIC và OCC (Cơ quan Tổng kiểm soát tiền tệ). Tại Mỹ, khi một ngân hàng có hệ số CAR dưới 3%, các cơ quan thanh tra sẽ phát hành lệnh C&D (Cease and desist order) và yêu cầu ngân hàng bổ sung vốn trong vòng 3-6 tháng.
Nếu sau thời gian này ngân hàng không đạt mức CAR 8%, FDIC sẽ tiếp quản ngân hàng. Sau khi tiếp quản, FDIC sẽ bán ngân hàng cho bên mua hoặc, nếu không có người mua, sẽ tiến hành thủ tục phá sản. Việc mở thủ tục phá sản là một phương án phổ biến ở Mỹ để loại bỏ các ngân hàng yếu kém. Trong năm 2023, ba ngân hàng lớn như Silicon Valley Bank (SVB), Silvergate Bank và Signature Bank đã tuyên bố phá sản.
Ông Hiếu cũng chỉ ra một số bất cập hiện nay trong các quy định liên quan tái cơ cấu ngân hàng. Để quá trình chuyển giao ngân hàng yếu kém đạt hiệu quả, ông cho rằng vốn chủ sở hữu của ngân hàng tái cơ cấu cần phải tối thiểu đạt 3.000 tỷ đồng và phải có sự bảo lãnh từ ngân hàng mẹ đối với toàn bộ tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng con.
Theo Điều 185 của Luật Các tổ chức tín dụng 2024, bên nhận chuyển giao sở hữu toàn bộ vốn điều lệ của ngân hàng không cần phải hợp nhất báo cáo tài chính, cũng như không tính ngân hàng con vào tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất. Tuy nhiên, ông Hiếu cho rằng quy định này chưa phù hợp thông lệ quốc tế và có thể dẫn đến việc báo cáo tài chính bị bóp méo, đặc biệt là khi không ghi nhận các khoản lỗ lũy kế. Việc không phản ánh chính xác tình hình tài chính có thể làm giảm niềm tin của cổ đông và người gửi tiền. Đồng thời, các khoản tiền gửi tại các ngân hàng chuyển giao hiện chỉ được bảo hiểm ở mức rất hạn chế, gây ra nguy cơ rủi ro lớn đối với người dân.
Nhìn chung, tái cơ cấu ngân hàng là quá trình dài hạn, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, tổ chức tài chính và xã hội. Nếu không minh bạch và hiệu quả, quá trình này khó có thể tạo ra thay đổi thực chất và bền vững cho toàn hệ thống ngân hàng quốc gia.
Hiện nay, nhiều ngân hàng trong nước đang chuyển mình theo mô hình tập đoàn tài chính, với phạm vi hoạt động không chỉ giới hạn trong lĩnh vực tín dụng, mà còn mở rộng sang các lĩnh vực như bảo hiểm, chứng khoán và đầu tư bất động sản. Vì vậy, cần thiết phải có một cơ chế phối hợp giám sát chặt chẽ, toàn diện và linh hoạt hơn, nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm trong cả hoạt động ngân hàng lẫn chứng khoán, tức là trên cả thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thuỳ Linh
————-
Thời nay (Kinh tế) ngày 17-4-2025:
https://nhandan.vn/chuyen-giao-ngan-hang-yeu-kem-can-thuc-chat-hon-post873159.html
(149/1.706)