4.047. Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu.

Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu

(TTTCTT) – Sau khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực thì ý thức trả nợ của khách hàng không những “như cũ”, mà thậm chí còn kém hơn, có những khách hàng tìm mọi cách để không bàn giao tài sản, thậm chí không trả lãi, phải tranh chấp ra tòa. Do vậy, để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, việc tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu là cần thiết.

Luật hóa Nghị quyết 42 là cần thiết

Phát biểu tại Tọa đàm “Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu” do Báo Đại biểu Nhân dân vừa tổ chức, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng chia sẻ, trước khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42), việc xử lý thu hồi nợ xấu của hệ thống ngân hàng rất khó khăn, do thiếu hành lang pháp lý.

Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi sau khi Nghị quyết 42 được ban hành và có hiệu lực từ 15/8/2017. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó Bộ Công an đã ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo công an các địa phương phối hợp ngân hàng, đã giúp công tác xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực.

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng phát biểu tại tọa đàm

Dẫn số liệu từ tháng 8/2017 đến cuối năm 2023, ông Nguyễn Quốc Hùng cho biết, tổng số nợ xấu được xử lý khoảng 445 nghìn tỷ đồng, trong đó nợ xử lý mà khách hàng trả nợ là 161 nghìn tỷ đồng, xử lý tài sản bảo đảm 93 nghìn tỷ đồng – chiếm hơn 20% trong tổng số nợ đã xử lý, trong đó chỉ có 10% là ngân hàng tiến hành thu giữ và có phát mại theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật.

“Điều quan trọng hơn là ý thức, trách nhiệm của người đi vay trong việc trả nợ đã nâng lên. Trước đây, nợ khách hàng tự trả bình quân chỉ khoảng 20%, sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực đã tăng lên 36%”, ông Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.

Tuy nhiên, khi Nghị quyết 42 kết thúc sứ mệnh vào ngày 31/12/2023. Từ đó đến nay, việc xử lý nợ xấu bộc lộ nhiều vấn đề. Thực tế cho thấy, trong thời gian đầu khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, tổng nợ xấu vào khoảng 4,55%, nếu tính cả nợ tiềm ẩn là trên 6%. Đến ngày 31/12/2024, tỷ lệ nợ xấu khoảng 5,46%, nhưng số tiền lên tới hơn 1 triệu tỷ đồng. Hai tháng đầu năm nay, nợ xấu tăng thêm 34 nghìn tỷ đồng. Tổng số nợ xấu hiện nay lớn hơn so với giai đoạn triển khai Nghị quyết 42.

“Đáng chú ý, sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực thì ý thức trả nợ của khách hàng không những “như cũ”, mà thậm chí còn kém hơn, tinh vi hơn, có những khách hàng tìm mọi cách để không bàn giao tài sản, thậm chí không trả lãi, phải tranh chấp ra tòa”, ông Nguyễn Quốc Hùng thông tin thêm.

Ở góc độ chuyên gia kinh tế, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam cho rằng, với hơn 1 triệu tỷ đồng nợ xấu, là con số rất lớn và rất cần trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang nỗ lực cho mục tiêu tăng trưởng hai con số. Nếu không xử lý được thì nguồn “vốn chết” này chính là điểm nghẽn của nền kinh tế. Do vậy, cần sớm có giải pháp để xử lý vấn đề này. Nếu nợ xấu giảm xuống 2 – 3%, thay vì mức 6 – 7%, thì nguồn lực cho nền kinh tế sẽ tăng lên, các ngân hàng có điều kiện để giảm lãi vay và sự an toàn của hệ thống tài chính cũng sẽ được cải thiện hơn.

Dưới góc nhìn của đại biểu Quốc hội, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên chuyên trách của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội nêu quan điểm: “Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực, trong khi đó, nợ xấu có tác động lớn đến nền kinh tế nên luật hóa Nghị quyết 42 là cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Mục đích không gì khác là phải bảo vệ quyền lợi các bên, không để việc xử lý nợ xấu bị chậm bởi quy trình, thủ tục rườm rà. Về lâu dài, cần có một luật chung về việc xử lý các khoản nợ nói chung trong nền kinh tế”.

Cần cho phép các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản thế chấp

Tại tọa đàm, các đại biểu nhất trí cho rằng, cần đưa các quy định của Nghị quyết 42 đã phát huy hiệu quả trong thời gian thí điểm vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.

Quang cảnh tọa đàm

Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đề xuất luật hóa 3 nhóm chính sách tại Nghị quyết 42.

Một là, các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp có thỏa thuận đồng ý giữa khách vay và tổ chức tín dụng;

Hai là, tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu chỉ bị kê biên trong trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc được sự đồng ý của các tổ chức tín dụng;

Ba là, đối với tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, sau khi hoàn tất thủ tục xác nhận chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý và thi hành án thì cơ quan tiến hành tố tụng hoàn trả vật chứng này cho các tổ chức tín dụng.

Ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, việc luật hóa 3 nội dung trên cơ bản là đủ và cần thiết. Tuy nhiên lưu ý, cần quy định hết sức cụ thể, đặc biệt là quyền thu giữ tài sản với các điều kiện, trình tự thủ tục rõ ràng, minh bạch, công khai, hiệu quả, bảo đảm hài hòa lợi ích các bên.

“Dự thảo Luật trao quyền thu giữ tài sản cho tổ chức tín dụng nhưng không có nghĩa các ngân hàng được thu giữ một cách vô điều kiện mà phải có quy định rõ ràng về thời điểm nợ xấu, thái độ, trách nhiệm; có trình tự thủ tục rõ ràng; phải minh bạch, công khai, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên. Các tổ chức tín dụng phải hết sức bình đẳng, tạo thuận lợi tối đa cho người dân trong xử lý tài sản bảo đảm.

Dẫu vậy, ông Nguyễn Quốc Hùng cũng cho rằng, trong quá trình xử lý thu hồi nợ xấu, quan trọng nhất vẫn là ý thức trách nhiệm. Ngành Ngân hàng sẵn sàng hợp tác với tất cả khách hàng có thiện chí, thông qua việc xem xét giảm lãi quá hạn hoặc lãi trong hạn. Tuy nhiên, nếu khách hàng có tài sản nhiều nhưng không chịu trả thì kể cả lãi quá hạn cũng không được miễn. “Do đó, việc trao trách nhiệm kê biên và thu giữ tài sản chính là để khách hàng thấy được trách nhiệm của mình và hợp tác với ngân hàng. Thu giữ tài sản chỉ là biện pháp cuối cùng, nhằm tạo cho khách hàng ý thức trả nợ cao hơn”, ông Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.

Còn theo Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, sửa Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó luật hóa một số nội dung của Nghị quyết 42, là rất cần thiết. “Nếu dự thảo luật được Quốc hội thông qua lần này sẽ tốt hơn cho việc xử lý nợ xấu, trong đó điểm mấu chốt quan trọng nhất là cho phép các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản thế chấp”, Luật sư Trương Thanh Đức nhấn manh.

Cũng theo Luật sư Trương Thanh Đức, trong mọi trường hợp, giải pháp thực sự cả trước mắt và lâu dài để hỗ trợ việc xử lý nợ xấu phải là thúc đẩy tốc độ và hiệu quả giải quyết loại tranh chấp, vướng mắc này tại các cơ quan liên quan, như tòa án, trọng tài, thi hành án, đấu giá, thuế, sang tên, chuyển quyền, chuyển đổi công năng… Đây không chỉ là việc riêng và không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho riêng ngành Ngân hàng, mà cho cả nền kinh tế.

Đoàn Hằng

————-

Thị trường Tài chính tiền tệ (Vấn đề – Nhận định) ngày 22-4-2025:

https://thitruongtaichinhtiente.vn/tao-lap-khuon-kho-phap-ly-dong-bo-ve-xu-ly-no-xau-67180.html

(183/1.558)

Bài viết 

314. Bài 3: Khát vọng hùng cường - Thể chế tốt phải...

Bài 3: Khát vọng hùng cường - Thể chế tốt phải tạo ra sự đột phá. Luật sư Trương...

Bình luận 

443. Bình luận về việc sửa đổi Luật Các tổ...

Bình luận về việc sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng 2024. (Tham...

Phỏng vấn 

4.466. Quyết liệt ngăn chặn quảng cáo lố.

Quyết liệt ngăn chặn quảng cáo lố. (TN) - Trong lúc cơ quan chức năng vẫn...

Trích dẫn 

4.046. Điện gió vẫn chờ gỡ vướng.

Điện gió vẫn chờ gỡ vướng. 01. Khó khăn chồng chất (NĐT) - Khi chọn...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 245,482