4.197. Thông tư 06 ‘chặn’ vốn ra nền kinh tế

Thông tư 06 ‘chặn’ vốn ra nền kinh tế

(TN) – Thông tư 06/2023 của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực từ đầu tháng 9 đến nay khiến các doanh nghiệp càng khó khăn để tiếp cận nguồn vốn, giảm đà tăng trưởng của nền kinh tế.
Quy định vô lý, thiếu thực tế

Chỉ trước khi có hiệu lực vài ngày, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải xem xét, sửa đổi một số nội dung tại Thông tư 06/2023 (TT06). Ngay sau đó, NHNN đã ban hành Thông tư 10/2023 để ngưng hiệu lực thi hành một số quy định tại TT06. Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn một số quy định vô lý, thiếu thực tế. Cụ thể, khoản 5, điều 26 của TT06 quy định: “Trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tổ chức tín dụng phải phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật, thỏa thuận của các bên tại thỏa thuận cho vay cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm”.

Tương tự, khoản 2 điều 22 yêu cầu các tổ chức tín dụng: “Trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án, có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích”. Hai quy định này ảnh hưởng nặng nề đến doanh nghiệp (DN).

Thông tư 06 chặn vốn ra nền kinh tế

Quy định tại TT06 của Ngân hàng Nhà nước vô lý, thiếu thực tế

NGỌC THẮNG

Theo Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA), các quy định nêu trên chỉ “làm lợi” cho phía NH. Ví dụ đối với trường hợp cho vay để đặt cọc mua nhà ở hình thành trong tương lai, theo quy định của TT06 thì chủ đầu tư dự án (bên nhận đặt cọc) bị phong tỏa tiền đặt cọc, không được sử dụng số tiền mà người mua đặt cọc. Điều này quá bất hợp lý, không bảo đảm quyền sở hữu của chủ tài sản, trong đó có quyền sử dụng số tiền đặt cọc. Trong khi đó, việc các bên không thực hiện đúng thỏa thuận nghĩa vụ bảo đảm (nếu có) thuộc phạm vi điều chỉnh của bộ luật Dân sự 2015. Do vậy, quy định tại TT06 là không phù hợp, thậm chí “trái” với các quy định có liên quan của bộ luật Dân sự.

Ngoài ra, trên thực tế, thường khoảng 30% khách hàng mua bất động sản, nhà ở hình thành trong tương lai vay vốn tín dụng để đặt cọc thì số tiền đặt cọc này lại bị NH phong tỏa, còn đối với khoảng 70% khách hàng sử dụng vốn tự có (không vay vốn tín dụng) để đặt cọc thì số tiền được chuyển vào tài khoản của chủ đầu tư và chủ đầu tư toàn quyền sử dụng. Do vậy, quy định trên cũng không phù hợp với thực tiễn.

HoREA kiến nghị NHNN xem xét bãi bỏ 2 quy định nêu trên để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của bộ luật Dân sự 2015. “Một số quy định của TT06 không phù hợp, gây khó khăn cho DN trong việc tiếp cận nguồn vốn NH. Rất mong NHNN có chính sách điều chỉnh kịp thời để thực hiện đúng theo Công điện số 993/CĐ-TTg ngày 24.10 của Thủ tướng Chính phủ là tiếp tục thúc đẩy việc cho vay tín dụng với lĩnh vực bất động sản; Có giải pháp phù hợp tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất; Tiếp tục rà soát cắt giảm hơn nữa các thủ tục hành chính không phù hợp gây phiền hà, tốn kém để DN, dự án bất động sản và người mua nhà tiếp cận được nguồn vốn tín dụng thuận lợi hơn”, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch HoREA, nhấn mạnh.

“Đẻ” thêm điều kiện cho vay, tăng chi phí cho DN

Nhiều DN bức xúc vì quy định của TT06 khiến các NH không chỉ kiểm soát, giám sát hoạt động của bên đi vay mà yêu cầu kiểm soát, giám sát hoạt động và dòng vốn của cả bên nhận góp vốn, tức là “bên thứ ba”. Bên thứ ba không đi vay trực tiếp mà vẫn phải chịu kiểm soát của NH, phải nộp báo cáo cho NH là vô lý. Đồng thời, quy định này cũng làm gia tăng quy trình, thủ tục, tăng chi phí tuân thủ pháp luật của tổ chức tín dụng, gây khó cho cả tổ chức tín dụng và chủ đầu tư dự án.

Đây cũng là một trong những lý do khiến mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2023 là 14% nhưng tới cuối tháng 11, tăng trưởng toàn hệ thống mới đạt 8,21%.

Phân tích kỹ hơn, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, cho rằng NH đang vì an toàn của mình, vì sợ trách nhiệm mà đẩy hết cái khó, thậm chí gây bế tắc cho DN. Cụ thể, đối với việc yêu cầu phải phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại khoản 5, điều 26 của TT06 thì các NH do sợ vi phạm sẽ áp dụng theo kiểu giải thoát mọi trách nhiệm của mình. Phải hiểu rằng việc cho vay để góp vốn không phải là “trường hợp cho vay để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” để phải phong tỏa tiền vay. Nếu hiểu theo cách DN vay tiền nhưng lại không được dùng tiền thì làm sao bên nhận góp vốn có thể triển khai được dự án và hoàn thành nghĩa vụ với bên góp vốn? Hệ lụy không chỉ là giao dịch kinh tế đổ vỡ mà còn gây tác động dây chuyền đến nhiều quan hệ kinh tế, dân sự khác. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải có tài sản bảo đảm gấp đôi (để NH cho vay và để NH giải tỏa số tiền đã giải ngân) cho cùng một khoản vay. Quy định này là quá vô lý, gây lãng phí nguồn lực, tăng chi phí, thậm chí là đánh đố DN.

Luật sư Trương Thanh Đức nhấn mạnh: Thậm chí, ngay cả trường hợp số tiền vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì NH cũng không được phép tự ý phong tỏa. Theo quy định tại điều 12 Nghị định số 101/2012 của Chính phủ thì NH chỉ có quyền phong tỏa tài khoản trong 4 trường hợp (không có trường hợp nào theo TT06). Tương tự, quy định tại khoản 2 điều 22 TT06 yêu cầu với các NH có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng… giống như “đẻ” thêm một điều kiện cho vay, gây thêm khó khăn cho bên góp vốn, đồng thời cũng gây phiền hà cho DN nhận vốn góp, bởi họ không phải là bên đi vay, không giao dịch mà vẫn phải chịu sự kiểm soát của NH.

Đồng tình, TS Lê Đạt Chí, Trưởng khoa Tài chính (Trường ĐH Kinh tế TP.HCM), cho rằng dù trên thực tế có phát sinh những trường hợp cho vay không đúng quy định, gây nợ xấu thì NHNN cũng không nên đưa ra các quy định can thiệp quá sâu vào nội bộ, quy trình hoạt động kinh doanh của các NH thương mại. Chỉ có luật mới quy định rõ các hoạt động, hành vi nào bị cấm. Thông tư là văn bản dưới luật chỉ được hướng dẫn thực hiện các quy định đã nêu trong luật liên quan. Hơn nữa, nội dung của điều 26, điều 22 như nêu trên là chưa rõ ràng, khó thực hiện.

Ví dụ, trong trường hợp không có ký kết 3 bên thì DN sẽ không có nghĩa vụ báo cáo cho phía NH về việc sử dụng vốn vay của các nhà đầu tư góp vốn vào dự án. Vì vậy, các quy định nói trên khiến cho chính bản thân NH cũng lúng túng trong khi DN lại khó tiếp cận nguồn vốn. Quan trọng nhất vẫn là hoạt động kiểm tra, giám sát từ những người lãnh đạo, có trách nhiệm trong các NH thương mại đến cơ quan quản lý là NHNN. Hiện tại Chính phủ đang nỗ lực tháo gỡ nhiều khó khăn nên càng tránh việc có thêm những quy định mới, nhất là trong lĩnh vực tài chính NH để hỗ trợ DN tiếp cận được vốn như bình thường, đầu tư mở rộng dự án để góp phần đưa kinh tế hồi phục.

Nếu có yêu cầu với bên thứ ba thì cần phải được quy định bằng luật. Như vậy, do sự mập mờ của TT06 mà nhiều tổ chức tín dụng để bảo vệ mình, đã áp dụng sai. Cách làm này vô hình trung biến TT06 thành một văn bản sai luật, trái thực tế, gây thiệt hại lớn cho các DN.

Luật sư Trương Thanh Đức

Ngoài việc đề xuất bãi bỏ một số quy định chưa hợp lý, HoREA cũng đề nghị NHNN xem xét bãi bỏ khoản 8, khoản 9 và khoản 10 điều 8 của TT số 39/201 (đã được bổ sung theo khoản 2 điều 1 TT06) do các quy định này chỉ mới ngưng hiệu lực thi hành kể từ ngày 1.9 vừa qua theo TT10/2023.

Mai Phương

—————-

Thanh niên (Ngân hàng) ngày 04-11-2023:

https://thanhnien.vn/thong-tu-06-chan-von-ra-nen-kinh-te-185231203201725269.htm#

(449/1.671)

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,972