57. Các tổ chức tín dụng phải giải quyết khiếu tố theo quy định của luật khiếu nại, tố cáo?

Các tổ chức tín dụng phải giải quyết khiếu tố theo quy định của luật khiếu nại, tố cáo?

(TCNH) – Đặt vấn đề:

Hiện nay, có quan điểm cho rằng, các Tổ chức tín dụng (TCTD) ngoài quốc doanh cũng phải thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và tổ chức tiếp công dân theo các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo số 09/1998/QH10 ngày 2-12-1998. Điều này cũng đã được thể hiện phần nào trong bản Kế hoạch số 1036/KH-NHNN3 ngày 27-10-1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc Triển khai học tập, tuyên truyền, thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định số 67/1999/NĐ-CP ngày 7-8-1999 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo.

Luật Khiếu nại, tố cáo là một trong những văn bản rất quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước ta, vì nó góp phần phát huy dân chủ; tăng cường pháp chế XHCN; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như của các cơ quan, tổ chức. Nhưng cũng chính vì sự quan trọng như vậy, nên càng cần phải xác định rõ những quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng liên quan đến Luật Khiếu nại, tố cáo, tránh tình trạng hiểu và thực hiện Luật một cách máy móc, quá mức cần thiết.

Quan điểm cho rằng, các TCTD cũng phải thực hiện việc giải quyết khiếu tố, có lẽ dựa vào một trong những cơ sở là, nhiều quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo chỉ đề cập đến trách nhiệm giải quyết khiếu tố một cách chung chung, mà không loại trừ các cơ quan, tổ chức và cá nhân nào.

Trước đây, Điều 2, Nghị định số 38-HĐBT ngày 28-1-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân, ngày 7-5-1991 đã quy định: “Các khiếu nại về việc vi phạm pháp luật trong tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội được giải quyết theo quy định của pháp luật[1]; nếu khiếu nại về việc vi phạm Điều lệ hoạt động thì được giải quyết theo Điều lệ của tổ chức đó”. Điều đó có nghĩa là, các tổ chức kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có các TCTD quốc doanh (TCTD Nhà nước), không phải giải quyết khiếu tố theo Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân. Nhưng Thông tư số 17/TT-NH3 ngày 30-12-1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong trong ngành Ngân hàng và Công văn số 273/TT-NH ngày 20-9-1993 của Chánh Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn nghiệp vụ công tác xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong ngành Ngân hàng, vẫn quy định trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với cả các TCTD quốc doanh.

Tại điểm thứ 6 của Chỉ thị số 07-CT/NH3 ngày 12-7-1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc tăng cường công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong ngành Ngân hàng, cũng có quy định dễ bị hiểu là áp dụng cho mọi TCTD như sau: “Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc các tổ chức tín dụng phải chỉ đạo sát sao việc giải quyết các đơn thư KN, TC trong đơn vị, đồng thời có trách nhiệm giải quyết kịp thời các tố cáo đối với Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng, Kiểm soát trưởng các đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp”.

Tại mục II, Phần B, Quy chế tiếp dân, nhận và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại các đơn vị trong ngành Tài chính, ban hành kèm theo Quyết định số 1258/1998/QĐ-BTC ngày 19-9-1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng có đoạn hướng dẫn: “Khiếu nại liên quan đến các hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp, cán bộ của các doanh nghiệp thuộc Bộ (Công ty, Tổng Công ty), thì chuyển cho Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc các Doanh nghiệp có thẩm quyền giải quyết”.

Thậm chí, tại điểm 1, Mục V, Thông tư số 28/1999/TT-BLDTBXH ngày 15-11-1999 của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20-9-1999 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài còn xác định: “Mọi khiếu nại, tố cáo của người lao động, của doanh nghiệp, của tổ chức, cá nhân liên quan tới việc thực hiện hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được giải quyết theo Luật Khiếu nại và tố cáo của Việt Nam”.

Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là: Các doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng phải có phải thực hiện không và phải thực hiện những nội dung nào của Luật Khiếu nại, tố cáo?

Bản chất của mối quan hệ khiếu nại, tố cáo:

Có thể chia các loại nội dung chủ yếu mà Luật Khiếu nại, tố cáo đề cập đến thành 5 vấn đề như sau:

– Việc khiếu nại;

– Việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại;

– Việc tố cáo;

– Việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo;

– Việc tổ chức tiếp công dân.

Bản chất của việc khiếu nại, tố cáo là mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với công dân cũng như với các tổ chức khác. Điều 74, Hiến pháp năm 1992 cũng đã quy định rõ:

Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.

Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định”.

Do đó, về nguyên tắc, việc khiếu tố và giải quyết khiếu tố bao giờ cũng có một bên liên quan là các cơ quan Nhà nước. Cũng như nhiều quốc gia khác, Nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân; “cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân”[2] và mong muốn xây dựng một chế độ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hàng nghìn năm trước, triết gia A-ri-xtốt đã nhận xét về mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước như sau: Trong một chế độ Nhà nước tồi tệ thì một con người tốt trở thành một công dân xấu, còn trong một chế độ đúng đắn thì khái niệm người tốt và công dân tốt là một. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa Nhà nước với công dân cũng như với các chủ thể khiếu tố luôn luôn chứa đựng yếu tố hành chính, mệnh lệnh chứ không phải là quan hệ tự nguyện, bình đẳng.

Nói đến mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân ở nước ta, cũng không thể không đề cập đến mối quan hệ giữa Nhà nước với đảng viên. Vừa qua, Trung ương Đảng có quy định 19 điều mà đảng viên không được làm, trong đó có việc “viết, ký tên và đơn thư khiếu kiện tập thể”. Vì Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, hầu hết cán bộ của đảng cũng giữ vai trò, vị trí như công chức Nhà nước, nên cần phải hiểu việc cấm khiếu kiện tập thể ở đây là việc khiếu kiện với các cơ quan Đảng và Nhà nước. Nếu cấm mọi sự khiếu kiện tập thể của đảng viên thì sẽ trái với các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Ví dụ, theo quy định của Bộ luật Lao động, người lao động hoàn toàn được quyền khiếu kiện tập thể đối với người sử dụng lao động (tranh chấp lao động tập thể). Đặc biệt, nếu người sử dụng lao động là nhà tư bản nước ngoài, thì Nhà nước càng khuyến khích việc khiếu nại, yêu cầu tập thể để giành quyền lợi tối đa cho người lao động Việt Nam.

Vì vậy, các vấn đề được quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo đều có yếu tố “Nhà nước” như sau:

– Đối tượng thứ nhất có thể bị khiếu nại là các quyết định hoặc hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước (khoản 1, Điều 1, Luật Khiếu nại, tố cáo);

– Đối tượng thứ hai có thể bị khiếu nại là các quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức (đoạn 2, khoản 1, Điều 1, Luật Khiếu nại, tố cáo);

– Đối tượng phải tiếp nhận và giải quyết việc khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc cơ quan hành chính Nhà nước (các khoản 8, 10, 11, Điều 2 và các Điều từ 19 đến 29, Luật Khiếu nại, tố cáo);

– Đối tượng phải tiếp nhận và giải quyết việc tố cáo là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thuộc cơ quan Nhà nước (khoản 2, Điều 1 và đoạn 1, Điều 60, Luật Khiếu nại, tố cáo);

– Đối tượng có trách nhiệm tiếp công dân cũng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc các cơ quan Nhà nước (các Điều 5 và 74, Luật Khiếu nại, tố cáo).

Tuy nhiên, do cơ chế chính trị đặc biệt của nước ta, cho nên ngoài các cơ quan Nhà nước, Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định số 67/1999/NĐ-CP đã mở rộng thêm một số tổ chức cũng phải thực hiện việc giải quyết khiếu tố theo quy định của Luật này, đó là:

– Tổ chức chính trị (cụ thể là Đảng Cộng sản Việt Nam – Điều 102, Luật Khiếu nại, tố cáo);

– Các tổ chức chính trị – xã hội (Điều 102, Luật Khiếu nại, tố cáo);

– Các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có các TCTD quốc doanh (Điều 71, Nghị định 67/1999/NĐ-CP).

Nhưng việc thực hiện các quy định về giải quyết khiếu tố sẽ rất khó khăn đối với các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có các TCTD quốc doanh. Do Luật Khiếu nại, tố cáo chỉ quy định phù hợp với các cơ quan Nhà nước, nên có rất nhiều vấn đề không hợp lý và thiếu căn cứ pháp lý cụ thể dành cho các chủ thể là tổ chức kinh tế. Đặc biệt, những việc khiếu tố xảy ra giữa các đối tượng này đều xuất phát từ quan hệ hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ.

Đối với các doanh nghiệp dân doanh, trong đó có các TCTD ngoài quốc doanh (như Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Quỹ tín dụng nhân dân,…), thì chỉ có trách nhiệm phối hợp và cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc khiếu tố theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu tố. Các TCTD này hoàn toàn không có thẩm quyền giải quyết khiếu tố theo các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Không có một điều, một chữ nào của Luật, cũng như Nghị định 67/1999/NĐ-CP quy định để áp dụng đối với các doanh nghiệp dân doanh, mà việc vận dụng thì lại càng không thể được nếu xét theo các nội dung cụ thể dưới đây.

Việc khiếu nại, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại:

Việc khiếu nại là quyền của mọi công dân, cơ quan và tổ chức theo quy định của Điều 1 và 2, Luật Khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, các TCTD cũng có quyền khiếu nại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước khi có căn cứ cho rằng, quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Nhưng việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại theo Luật Khiếu nại, tố cáo chỉ thuộc thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước và một số tổ chức gắn liền với Nhà nước, chứ không thuộc trách nhiệm của các TCTD ngoài quốc doanh. Điều này thể hiện khá rõ trong Chương II của Luật Khiếu nại, tố cáo và chương I, Nghị định số 67/1999/NĐ-CP, chỉ quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại quyết định hành chính và hành vi hành chính.

Giả sử các TCTD ngoài quốc doanh giải quyết khiếu nại lần đầu của khách hàng, nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết, thì khách hàng không thể khiếu nại lên cơ quan cấp trên trực tiếp của TCTD để giải quyết hoặc kiện ra Toà hành chính theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Hay, chỉ cần xét về mặt hình thức và thủ tục, nếu các cơ quan Nhà nước buộc phải ra quyết định giải quyết khiếu nại mà không được dùng hình thức thông báo hay công văn, thì ngược lại, các TCTD lại không thể ra quyết định để giải quyết thắc mắc, khiếu nại của khách hàng được. Ngay cả việc Luật các TCTD đã “dành” cho các TCTD một loạt quyền như: “cấp tín dụng”, “xét duyệt cho vay”, “quyết định cho vay”, “yêu cầu khách hàng”,… nhưng kết quả cuối cùng của quan hệ vẫn phải thể hiện bằng một “hợp đồng tín dụng” tự do, bình đẳng và tự nguyện giữa các bên.

Nếu có khiếu nại của khách hàng, của người lao động, của các thành viên công ty hay của các đối tượng khác, xuất phát từ các quan hệ tự nguyện, bình đẳng, thì các TCTD ngoài quốc doanh sẽ tiếp nhận và giải quyết theo quy định của Luật các TCTD, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế,… chứ không thể giải quyết theo Luật Khiếu nại, tố cáo nói riêng hoặc theo thủ tục hành chính Nhà nước nói chung.

Việc tố cáo, tiếp nhận và giải quyết tố cáo:

Việc khiếu nại, việc tố cáo chỉ thuộc về quyền của công dân và chỉ có công dân mới có thể tố cáo về hành vi trái pháp luật của mọi đối tượng. Còn các TCTD nói riêng cũng như các cơ quan, tổ chức nói chung, đều không có quyền tố cáo theo quy định của khoản 2, Điều 1, Luật Khiếu nại, tố cáo.

Và cũng như phân tích ở phần trên, các TCTD ngoài quốc doanh cũng không có thẩm quyền giải quyết việc tố cáo theo các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Mặc dù, Luật Khiếu nại, tố cáo chỉ định nghĩa người giải quyết tố cáo là các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền mà không chỉ rõ là ai, nhưng qua những quy định tại Mục 2, chương IV, về thẩm quyền giải quyết tố cáo, thì hoàn toàn có thể loại trừ trách nhiệm này của các TCTD ngoài quốc doanh.

Quy định tại đoạn 1, Điều 59 là: “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết”, có thể dẫn đến cách hiểu là mọi cơ quan, tổ chức đều phải giải quyết tố cáo đối với người của cơ quan, tổ chức mình. Nhưng đoạn 3, Điều 59, lại quy định: “Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết”. Điều này không thể áp dụng đối với các doanh nghiệp và TCTD ngoài quốc doanh, vì một lẽ đơn giản là loại hình tổ chức này không có “cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp” (Ngân hàng Nhà nước chỉ là cơ quan quản lý Nhà nước). Quy định tại Điều 69, Luật Khiếu nại, tố cáo cũng dẫn tới tình trạng tương tự như vậy.

Đoạn 1, Điều 60, quy định: “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý Nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan dó có trách nhiệm giải quyết”. Vì vậy, nếu có việc tố cáo TCTD hoặc các cá nhân thuộc TCTD ngoài quốc doanh, thì đương nhiên phải do cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước liên quan đến nội dung tố cáo mới có thẩm quyền đứng ra giải quyết.

Điều 61, quy định: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền; trong trường hợp cần thiết thì giao cho cơ quan thanh tra hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận và kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo”. Điều này cũng cho thấy, việc giải quyết tố cáo là việc làm của các cơ quan Nhà nước, vì các TCTD ngoài quốc doanh không thể có quyền giao việc giải quyết tố cáo cho cơ quan thanh tra hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.

Sở dĩ, Luật không chỉ rõ cơ quan giải quyết tố cáo, là vì ngoài các cơ quan Nhà nước (bao gồm cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, kể cả các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang), còn có các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị – xã hội cũng phải thực hiện các quy định đó. Đoạn 2, Điều 60, Luật Khiếu nại, tố cáo có quy định: “Tố cáo hành vi phạm tội do các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”. Như vậy, ngay cả các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo cũng không nhất thiết phải giải quyết theo các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.

Việc tổ chức tiếp công dân:

Điều 74, Luật Khiếu nại, tố cáo đã quy định rõ: “Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân và tổ chức việc tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo;…” Điều 91, Luật Khiếu nại, tố cáo cũng quy định: “Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo”. Các Điều từ 51 đến 58 của Nghị định số 67/1999/NĐ-CP cũng như Quy chế Tổ chức tiếp công dân, ban hành kèm theo Nghị định số 89-CP ngày 7-8-1997 của Chính phủ, cũng chỉ nhắc đến trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, mà không hề có quy định nào áp dụng cho các doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải xem xét lại đoạn “Việc tiếp công dân để giải quyết mặt trái nói trên, không riêng gì NHNN mà là trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài tại Việt Nam đều phải tổ chức thực hiện” tại điểm 9, mục II, bản Kế hoạch số 1036/KH-NHNN3 ngày 27-10-1999 nói trên của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo tôi, trách nhiệm tiếp dân chỉ thuộc về các Tổ chức tín dụng Nhà nước, chứ không phải gồm cả “các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài”.

Có thể so sánh việc giải quyết khiếu tố nói chung và việc tiếp công dân nói riêng với việc treo Quốc kỳ. Không phải cơ quan nào và lúc nào cũng được treo hoặc phải treo Quốc kỳ. Các cơ quan Nhà nước, thì phải treo hàng ngày (tuy nhiên không được treo vào ban đêm), còn dân chúng và các tổ chức kinh tế thì chỉ phải treo Quốc kỳ vào một số ngày lễ tết.

Kết luận:

Tóm lại, theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định số 67/1999/NĐ-CP ngày 7-8-1999 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo, thì các doanh nghiệp và TCTD ngoài quốc doanh chỉ có quyền và nghĩa vụ thực hiện các quy định dưới đây của Luật Khiếu nại, tố cáo:

Có trách nhiệm phối hợp và cung cấp các thông tin, tài liệu có liên quan đến việc khiếu tố theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu tố (trách nhiệm này hoàn toàn giống như đối với mọi cơ quan, tổ chức khác);

Được quyền khiếu nại các quy định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước (quyền này cũng hoàn toàn giống như đối với mọi cơ quan, tổ chức khác);

Không được quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác (quyền này chỉ thuộc về công dân);

Không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo Luật Khiếu nại, tố cáo (nếu có việc khiếu nại, thì giải quyết theo pháp luật chuyên ngành có liên quan);

Không có thẩm quyền giải quyết tố cáo theo Luật Khiếu nại, tố cáo (nếu có việc tố cáo, thì do các cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết);

Không phải tổ chức tiếp công dân (nếu có, thì chỉ là tiếp khách hàng và người lao động);

– Vì vậy, các TCTD ngoài quốc doanh cũng không phải mở sổ sách theo dõi, báo cáo việc tiếp công dân, việc thụ lý và giải quyết khiếu tố theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.

Căn cứ vào các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định 67/1999/NĐ-CP, thì các ngành, các địa phương không thể hướng dẫn các doanh nghiệp dân doanh và TCTD ngoài quốc doanh cũng phải thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo như các cơ quan Nhà nước. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là các TCTD ngoài quốc doanh không cần quan tâm gì đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vấn đề là ở chỗ, nếu có việc giải quyết khiếu tố và tiếp dân (khách hàng), thì việc xử lý thế nào là hoàn toàn thuộc quyền của các doanh nghiệp và chỉ tuân theo các quy định khác của pháp luật chứ không theo Luật Khiếu nại, tố cáo. Và các chủ doanh nghiệp làm những việc đó là để quản lý bộ máy lao động làm thuê và tài sản của mình một cách an toàn, có hiệu quả; thu hút, duy trì được nhiều đối tác, khách hàng, bạn hàng, lao động tốt nhất và nhằm mục đích cuối cùng là đạt được mức lợi nhuận tối đa chứ không phải vì mục đích “phát huy dân chủ” và “tăng cường pháp chế XHCN”,…

Khái niệm công dân chỉ tồn tại trong mối quan hệ với Nhà nước, chứ không tồn tại trong mối quan hệ với các doanh nghiệp. Về nguyên tắc, quan hệ giữa Nhà nước với công dân và các tổ chức (gồm doanh nghiệp và các pháp nhân khác), kể cả cá nhân, tổ chức nước ngoài, được giải quyết thông qua các quy định về giải quyết khiếu tố và sau nữa là theo trình tự tố tụng tại Toà hành chính; còn quan hệ giữa doanh nghiệp với tổ chức, cá nhân (cá nhân, doanh nhân, người lao động) không phải là Nhà nước, phải được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải và sau nữa là tại các cơ quan Trọng tài kinh tế (thương mại), Toà dân sự, Toà kinh tế và Toà lao động. Không vì Điều 12, Luật các TCTD có quy định về loại “TCTD cổ phần của Nhà nước và nhân dân” mà cho rằng, các TCTD ngoài quốc doanh cũng phải thực hiện việc giải quyết khiếu tố theo Luật Khiếu nại, tố cáo.

Ngay cả việc Điều 71, Nghị định 67/1999/NĐ-CP quy định “Khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các doanh nghiệp nhà nước được áp dụng theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này, trừ trường hợp khiếu nại liên quan đến việc thực hiện hợp đồng lao động” cũng là không cần thiết và cũng không hoàn toàn đúng với tinh thần của Luật Khiếu nại, tố cáo.

Trong khi Nhà nước ta đang đẩy mạnh công cuộc cải cách kinh tế và nền hành chính quốc gia, thì không nên “hành chính hoá” quan hệ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Xin đừng bắt các tổ chức xã hội và kinh tế, trong đó có các TCTD ngoài quốc doanh, phải làm những điều không hợp lý, không cần thiết đối với chức năng và bản chất pháp lý của các tổ chức đó.

Mong rằng những ý kiến trên là một sự góp ý – một sự “khiếu nại” sớm – để góp phần vào việc xây dựng Quy chế Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong ngành Ngân hàng, mà theo bản Kế hoạch số 1036/KH-NHNN3 nói trên, thì sẽ được hoàn thiện vào quý I năm 2000.

[1] “Theo quy định của pháp luật” ở đây có nghĩa là, không theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nếu không thì HĐBT đã quy định rõ: Theo quy định của Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân và Nghị định này.

[2] Điều 2, Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26-2-1998.

 

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC. 

______

Bài viết đã đăng Tạp chí Ngân hàng 5-2000

Hải Phòng 7-2001

Bài viết 

311. Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế...

Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế bất động sản. [caption id="attachment_42152"...

Bình luận 

436. Bình luận về Luật siêu dễ - Luật Quản lý tài...

Bình luận về Luật siêu dễ - Luật Quản lý tài sản công. Cố vấn: Luật...

Phỏng vấn 

4.415. Ngân hàng 'nước rút' xác thực sinh trắc...

Ngân hàng 'nước rút' xác thực sinh trắc học trước giờ G. (NĐT) -...

Trích dẫn 

3.969. Không gia hạn Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, nợ...

Không gia hạn Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, nợ xấu gia tăng nhưng tốt...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 235,835