683. Bảo hiểm Xuân Thành không thể thoái thác trách nhiệm với khách hàng

(TBDN) – Liên quan đến vụ việc công ty cổ phần Hoàng Thịnh (Thanh Hóa) “tố” Bảo hiểm Xuân Thành chây ỳ việc giải quyết thân tàu Hoàng Thịnh 17.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật TNHH ANVI

Tuy nhiên, theo công văn trả lời của XTI với Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) và Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính) thì do vụ tổn thất tàu không thuộc trách nhiệm bảo hiểm của XTI nên công ty có quyền từ chối bồi thường.

Để làm rõ vấn đề này, PV Thời Báo Doanh Nhân đã có cuộc trao đổi với Luật sư Trương Thanh Đức (Giám đốc Công ty Luật TNHH ANVI, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc Tế Việt Nam – VIAC), người đã có trên 27 năm kinh nghiệm về lĩnh vực kinh tế – ngân hàng, bảo hiểm.

– Căn cứ vào hồ sơ, giấy tờ liên quan đến vụ việc cùng với kinh nghiệm đã tư vấn chuyên nghiệp về lĩnh vực kinh tế – ngân hàng, bảo hiểm. Ông hãy cho biết, bên nào đúng bên nào sai?

– Dựa vào những hồ sơ tôi được xem qua, tôi có thể nhận định như sau:

Thứ nhất: Xét về khía cạnh pháp lý thì chưa xác định rõ được công ty Hoàng Thịnh đúng hay bên công ty bảo hiểm Xuân Thành đúng, bởi quan trọng nhất đối với việc bồi thường tiền bảo hiểm nằm ở chỗ thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hay không.

Điều 15 về “Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm”, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định: “Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi có một trong những trường hợp sau đây:

  1. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm.
    2. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm.”

Theo tôi, trong tình huống này thì bên phía Công ty bảo hiểm Xuân Thành (người bảo hiểm) đang ở thế chủ động. Bên phía công ty Hoàng Thịnh (người được bảo hiểm) có nguy cơ bị thiệt hại do người bảo hiểm gửi các công văn chấp thuận, hay công văn yêu cầu cho công ty Hoàng Thịnh đều rất mập mờ, dễ gây hiểu nhầm.

Ví dụ như công văn trả lời số 18/2014/CV-XTI-THO về việc chấp nhận cho công ty Hoàng Thịnh nộp phí bảo hiểm theo đúng điều 4, mục 4.3 (thời hạn thanh toán phí) hợp đồng bảo hiểm số 13/16/01/0703/0001 giữa công ty Hoàng Thịnh và công ty bảo hiểm Xuân Thành Thanh Hóa.

Công văn này mập mờ ở chỗ dù đồng ý gia hạn thời gian đóng phí bảo hiểm cho bên người được bảo hiểm, nhưng lại ghi rõ “trong quá trình nộp phí, nếu công ty Hoàng Thịnh nộp chậm phí bảo hiểm thì hiệu lực bảo hiểm sẽ có hiệu lực kể từ ngày công ty Hoàng Thịnh nộp phí. Mọi phát sinh rủi ro trước ngày nộp phí, công ty Hoàng Thịnh chịu hoàn toàn trách nhiệm trước công ty và pháp luật”.

Như vậy, có thể bên công ty Hoàng Thịnh hiểu là không chấp thuận cho công ty Hoàng Thịnh được gia hạn nộp phí bảo hiểm mà chỉ thỏa thuận là nộp phí bảo hiểm từ ngày nào thì bảo hiểm sẽ có hiệu lực từ ngày đó.

Chính vì thế, dù trong công văn xin gia hạn đóng phí bảo hiểm số 28/03/2014-HT của công ty Hoàng Thịnh có ghi là chậm nhất ngày 15/4/2014 là phải hoàn thành xong phí bảo hiểm kỳ 4, nhưng do hiểu là bên phía bảo hiểm Xuân Thành thỏa thuận nộp phí bảo hiểm từ ngày nào thì bảo hiểm sẽ có hiệu lực từ ngày đó, cộng với nguồn tài chính khó khăn nên đến ngày 16/4/2014 bên phía công ty Hoàng Thịnh mới hoàn thành việc đóng phí bảo hiểm.

Thứ hai: Công ty Hoàng Thịnh cũng có quyền được hưởng quyền lợi của mình khi đã tham gia hợp đồng bảo hiểm. Bởi theo hợp đồng bảo hiểm tàu Hoàng Thịnh 17 thì số tiền đóng phí chia thành 4 kỳ, trong khi đó bên người đóng phí bảo hiểm đã cơ bản hoàn thành việc đóng phí (hoàn thành ¾ kỳ) chỉ chậm đóng phí kỳ cuối cùng là kỳ 4.

Cán bộ, công nhân viên công ty Hoàng Thịnh có mặt tại trụ sở XTI để đòi thanh toán tiền bảo hiểm hôm 11/2 vừa qua.

Ngoài ra, việc đóng chậm phí bảo hiểm là do khó khăn tài chính, những yếu tố khách quan tác động. Vì thế, bên người bảo hiểm không nên vin vào việc đóng chậm để cố tình thoái thác toàn bộ trách nhiệm. Trong trường hợp này, công ty Hoàng Thịnh có thể dựa vào những điều luật quy định trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để đòi hỏi quyền lợi dành cho mình.

– Theo ông trong trường hợp này thì Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) và Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính)  phải làm gì để trả lại quyền lợi cho khách hàng? 

– Theo ý kiến cá nhân cũng như kinh nghiệm đã nhiều năm theo những vụ việc tương tự như thế này. Tôi cho rằng, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) hoặc Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính) – đơn vị phụ trách chính về lĩnh vực bảo hiểm nên cử người đến thanh kiểm tra các giấy tờ, hồ sơ vụ việc của hai bên cũng như kiểm tra lại toàn bộ quá trình diễn ra sự kiện bảo hiểm (sự cố hỏng tàu Hoàng Thịnh 17) để nhận định rõ xem bên nào đúng, bên nào sai. Sau đó, nhanh chóng giải quyết vụ việc để đảm bảo công bằng cho cả hai bên.

– Với 27 năm kinh nghiệm tư vấn chuyên nghiệp về lĩnh vực kinh tế – ngân hàng, bảo hiểm… ông đã gặp những trường hợp như thế này chưa? Và thường thì họ giải quyết như thế nào, thưa ông?

– Từ lúc khởi nghiệp làm Luật sư đến bây giờ khi đảm nhận cương vị Giám đốc Công ty Luật TNHH ANVI, trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc Tế Việt Nam, tôi đã gặp nhiều vụ việc tương tự như thế này. Mới nhất, tôi đã tư vấn thành công cho một khách hàng cũng khiếu nại về việc bồi thường cho người được bảo hiểm (bảo hiểm Container) khi nhà bảo hiểm không chịu thanh toán tiền bồi thường.

Tôi có theo dõi, nhiều trường hợp họ đấu tranh đến cùng bằng biện pháp đưa ra tòa xử thắng thua, nhưng đa số là hai bên tự thỏa thuận với nhau có thể là hai bên chịu 50/50 hoặc là 40/60 tùy theo tính chất vụ việc.

Theo tôi, trong tình huống này hai bên nên tự thỏa thuận là mỗi bên chịu thiệt hại một phần. Theo đó, công ty bảo hiểm Xuân Thành nên thanh toán cho bên phía công ty Hoàng Thịnh 50 – 60% tiền bồi thường tàu Hoàng Thịnh vì dù sao bên người đóng bảo hiểm cũng đã cơ bản hoàn thành nghĩa vụ khi đóng được số phí bảo hiểm trước khi xảy ra sự cố.

– Nếu phải đưa nhau ra tòa xử thắng thua thì theo ông bên nào sẽ có lợi hơn?

– Tôi vẫn xin nhắc lại, cả hai bên không nên đưa nhau ra tòa mà tốt nhất mỗi bên chịu thiệt một ít rồi thỏa thuận đi đến thống nhất. Việc phân định thắng thua còn phải dựa vào nhiều tình tiết liên quan khác nữa, nên rất khó khẳng định. Tuy nhiên, nếu bên bán bảo hiểm quá dựa vào lý của mình để từ chối tất cả, thì liệu khách hàng có muốn mua bảo hiểm nữa không? Và bên mua bảo hiểm đã hoàn thành 75% nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm mà vẫn không được hưởng một chút quyền lợi nào thì cũng rất thiệt thòi.

Hơn nữa, việc công ty Hoàng Thịnh đóng chậm bảo hiểm có thể là do văn bản trả lời của công ty bảo hiểm Xuân Thành mập mờ, khó hiểu dẫn đến người đóng phí hiểu sai rồi đóng chậm. Ngoài ra, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng nghiêng về phía khách hàng khi mà việc hỏng hóc tàu Hoàng Thịnh là do điều kiện khách quan chứ không phải ý muốn chủ quan. Người bảo hiểm (công ty bảo hiểm Xuân Thành) không nên quy kết từng câu chữ trong hợp đồng để thoái thác trách nhiệm với khách hàng.

Xin trân trọng cảm ơn Luật sư!

 “Ngày 18/6/2013, công ty CP Hoàng Thịnh ký hợp đồng bảo hiểm tàu thuyền số: 13/16/01/0703/0001 với công ty bảo hiểm Xuân Thành với nội dung là bảo hiểm cho tàu Hoàng Thịnh 17 trong thời hạn 1 năm kể từ ngày 18/6/2013 đến ngày 18/6/2014 với tổng số tiền là 310.200.720 đồng.

Thời hạn thanh toán phí được chi ra làm 4 kỳ và công ty Hoàng Thịnh đã đóng đủ 3 kỳ với số tiền là 235.200.700 đồng, còn lại phí kỳ 4 phải thanh toán trước 30/3/2014 với số tiền 75 triệu đồng. Nhưng do khó khăn tài chính nên ngày 28/3/2014 công ty Hoàng Thịnh đã gửi công văn số 28/03/2014-HT về việc xin gia hạn nộp phí bảo hiểm kỳ 4.

Ngày 8/4/2014 công ty bảo hiểm  Xuân Thành đã có công văn trả lời số 18/2014/CV-XTI-THO với nội dung chấp nhận cho công ty Hoàng Thịnh nộp phí bảo hiểm theo đúng điều 4, mục 4.3 (thời hạn thanh toán phí) hợp đồng bảo hiểm số 13/16/01/0703/0001 giữa công ty Hoàng Thịnh và công ty bảo hiểm Xuân Thành Thanh Hóa.

Công văn trả lời của XTI cũng nêu rõ: “Công ty bảo hiểm Xuân Thành Thanh Hóa chấp nhận cho công ty Hoàng Thịnh nộp phí bảo hiểm theo đúng Điều 4 – mục 4.3 (thời hạn thanh toán phí) hợp đồng bảo hiểm số 13/16/01/0703/0001 giữa công ty Hoàng Thịnh và công ty bảo hiểm Xuân Thành Thanh Hóa ký ngày 18/6/2013. Trong quá trình nộp phí, nếu công ty Hoàng Thịnh nộp chậm phí bảo hiểm thì hiệu lực bảo hiểm sẽ có hiệu lực kể từ ngày công ty Hoàng Thịnh nộp phí. Mọi phát sinh rủi ro trước ngày nộp phí, công ty Hoàng Thịnh chịu hoàn toàn trách nhiệm trước công ty và pháp luật”.

Căn cứ vào công văn trả lời của XTI, ngày 16/4/2014 công ty Hoàng Thịnh đã nộp phí bảo hiểm kỳ 4 với số tiền còn lại là 75 triệu đồng. Khoảng 20 giờ ngày 16/4/2014, tàu biển của công ty Hoàng Thịnh gặp sự cố, phía công ty đã liên hệ với đơn vị bảo hiểm và hoàn tất hồ sơ theo hướng dẫn, giám sát của bảo hiểm và giám định theo nguyên tắc hợp đồng bảo hiểm nhưng không phát hiện tổn thất nào.
Tuy nhiên, ngày 28/4/2014 tàu Hoàng Thinh 17 gặp sự cố hỏng máy chính. Ngay sau khi gặp sự cố, công ty Hoàng Thịnh đã báo với công ty bảo hiểm Xuân Thành và bên phía XTI đã cử đơn vị giám định là  công ty cổ phần giám định Thái Dương đến giám sát và kiểm tra sửa chữa.

Ngày 18/7/2014, cơ quan giám định đã có kết luận cuối cùng về tổn thất của tàu Hoàng Thịnh 17 với chi phí sửa chữa là hơn 600 triệu đồng. Theo kết quả giám định, thì nguyên nhân và tổn thất thực tế tàu Hoàng Thịnh 17 là vào ngày 16/4/2014.

Bên công ty Hoàng Thình cho rằng, thời gian tổn thất tàu nằm trong thỏa thuận hợp đồng bảo hiểm (hợp đồng có hiệu lực từ 16/4) giữa hai bên và công ty bảo hiểm Xuân Thành phải có trách nhiệm thanh toán tiền bồi thường bảo hiểm cho công ty Hoàng Thịnh.

Theo đơn thư khiếu nại của công ty Hoàng Thịnh, từ sau khi máy tàu được sửa chữa xong (7/5/2014) và báo cáo giám định tổn thất của cơ quan giám định đến nay bên phía bảo hiểm Xuân Thành vẫn chưa thanh toán tiền bảo hiểm dù bên phía đối tác đã nhiều lần gửi đơn, thư yêu cầu giải quyết bồi thường.

Tuy nhiên, cho rằng bên phía công ty Hoàng Thịnh đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm kỳ 4 tàu Hoàng Thịnh 17 theo như quy định đã được hai bên ký kết nên công ty XTI đã từ chối bồi thường”.

Hòa Hậu (thực hiện).

———–

Thời báo Doanh nhân (Dòng sự kiện) 22-4-2015:

http://tbdn.com.vn/bao-hiem-xuan-thanh-khong-the-thoai-thac-trach-trach-nhiem-voi-khach-hang-n4718.html

(1.450/2.231)

Bài viết 

312. Khát vọng hùng cường: Thể chế là chìa khoá...

Khát vọng hùng cường: Thể chế là chìa khoá mở ra Kỷ nguyên mới. (BĐS) - Chúng ta đang ở trong những thời khắc lịch sử rất quan trọng của đất nước. Sau mấy chục năm đổi mới và cải cách, chúng ta lại bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới bằng việc thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là cải cách thế chế.Lời tòa soạn:Cải cách thể chế và tôn trọng thị trường được xem là hai yếu tố then chốt, mở ra con đường phát triển bền vững cho mỗi quốc gia. Bài học từ những nền kinh tế thành công trên thế giới đã cho thấy, một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, cùng với sự tôn trọng các quy luật của thị trường, sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự sáng tạo và tăng trưởng.Vậy, thực trạng cải cách thể chế và sự vận hành của thị trường tại Việt Nam hiện nay ra sao? Những giải pháp nào cần được triển khai để khai phá tiềm năng phát triển của đất nước? Reatimes xin trân trọng giới thiệu chùm bài viết: Khát vọng hùng cường: Cải cách thể chế và tôn trọng thị trường là chìa khóa phát triển của Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC, một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý và kinh tế, về câu chuyện này. Sau khoảng thời gian dài đổi mới, bứt phá, chúng ta lại đang bị chậm chân và tụt hậu. Rất may là hiện chúng ta có rất nhiều cơ hội và lợi thế, trong đó có ba lợi thế dành cho tất cả mọi người, không loại trừ một ai. Đó là kinh doanh, tiêu dùng và hội nhập. Tôi cho rằng, thế giới nếu có, cùng lắm cũng chỉ một hay hai chứ không có được đồng thời ba lợi thế như chúng ta.Thứ nhất, doanh nhân và người dân đất nước ta chấp nhận rủi ro rất cao. Họ sẵn sàng đầu tư, sẵn sàng kinh doanh rất mạnh mẽ, kể cả trong nhiều lĩnh vực mạo hiểm.Thứ hai, doanh nghiệp và người dân chấp nhận hội nhập rất mạnh mẽ với hàng loạt các hiệp định, hiệp ước chúng ta tham gia và trên thực tế đã được biến thành hành động và cho kết quả rõ nét. Chúng ta sẵn sàng tham gia chuỗi cung ứng tiêu thụ toàn cầu. Chúng ta đã bắt nhanh và tận dụng được lợi thế của công nghệ, của trí tuệ nhân tạo, của những thành quả đổi mới. Ở nhiều nước khác, người ta phát triển, tăng tốc, đổi mới trong những giai đoạn chưa có những lợi thế này.Thứ ba, người tiêu dùng Việt Nam chi tiêu rất mạnh tay. Có thể nói, chúng ta chưa giầu nhưng rất "chịu chơi" và chịu chi, tức khả năng tiêu thụ rất mạnh hàng hóa, dịch vụ từ bình dân cho đến cao cấp.Thị trường 100 triệu dân chấp nhận rủi ro lớn, chấp nhận hội nhập cao và chấp nhận tiêu thụ mạnh là thị trường quá hấp dẫn và có rất nhiều cơ hội phát triển.Đấy là những cơ sở để chúng ta bứt phá trong sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh toàn cầu. Nhưng đẩy mạnh sản xuất, phát triển thương mại, dịch vụ hay gia tăng tiêu thụ thì cũng đều phụ thuộc rất nhiều vào thể chế.Cải cách thể chế - yếu tố then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ảnh: Chinhphu.vn.Chúng ta đã từng tiến rất nhanh, rất mạnh, rất tốt, như một giấc mơ và hơn cả giấc mơ mà thế giới cũng phải ghi nhận. Nhưng đó mới chỉ là so sánh với chính chúng ta, với mặt bằng khởi đầu rất thấp. Đã chấp nhận nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu, rộng toàn cầu mà chỉ so với chính mình thì không mấy ý nghĩa, thậm chí là vô nghĩa, là ru ngủ, là trì trệ, tụt hậu. Nếu như sắp tới không vượt qua chính mình thì chúng ta cũng vẫn cứ đi lên, vẫn cứ tiến bộ, vẫn cứ tăng trưởng vì là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, tiến lên kiểu nhờ nước nổi, bèo nổi thì không khác nào kiểu tư tưởng lội nước đi sau, bình chân như vại, được chăng hay chớ, theo đóm ăn tàn và sẽ chỉ quanh quẩn ở cuối, đi sau thiên hạ.Thách thức của chúng ta là buộc phải chạy đua với các nước trong lúc họ cũng rất nhanh, rất cởi mở, rất tạo điều kiện phát triển. Do đó, muốn bước vào kỷ nguyên mới thành công thì đừng ngủ mê trên thành tích.Chúng ta đã từng rất khốn khổ, nghèo đói vì chính sách phát triển không phù hợp quy luật thị trường, khiến kinh tế bị kìm hãm, lạc hậu. Nhưng chúng ra đã kịp nhận ra để thay đổi và phát triển với chính sách đúng đắn, rộng mở. Công cuộc đổi mới, cải cách đã được mở ra với những chính sách mạnh dạn phá rào để tháo gỡ điểm nghẽn dòng chảy lưu thông của hàng hoá nói chung và lương thực nói riêng trong cơ chế ngăn sông, cấm chợ, bóp nghẹt thị trường lúc đó.Đáng tiếc là những năm gần đây, nền kinh tế lại đang đối mặt trở lại với nguy cơ bị thắt chặt, trói buộc. Nhiều việc lớn, việc khó không được tháo gỡ, tạo điều kiện, mà chỉ muốn ngăn chặn, cấm đoán, có lẽ là do sợ chịu trách nhiệm và để "giữ an toàn". Những cái thông thường nhất, đơn giản nhất, dễ nhất thì nhiều khi cũng gây khó dễ, vòi vĩnh. Tiếp xúc với doanh nghiệp, người dân qua những câu chuyện hằng ngày mới thấy rằng, để đứng vững và phát triển, doanh nghiệp phải trả giá bằng muôn vàn bức xúc, chi phí không chính thức và những điều đáng buồn.Sau một thời gian xoá bỏ "giấy phép con", lại nảy sinh điều rất lo ngại vì nó bị biến thành "giấy phép cha" và "giấy phép vô hình". Với con số ước tính lên đến 16.000 điều kiện kinh doanh tại thời điểm này thì môi trường kinh doanh đã xấu đi quá nhanh, trắc trở khó ngờ. Đó là một vạn sáu nghìn sợi dây trói buộc doanh nghiệp, níu kéo doanh nhân, kìm hãm thị trường. Rất nhiều tiền bạc, công sức, nguồn lực xã hội bị hao hụt, tiêu tán, thui chột khi hoạt động giao thương rơi vào vô số sợi dây pháp lý hay phải vượt qua từng đó cái cửa lớn, nhỏ với những ổ khóa học búa.Doanh nghiệp muốn được thật sự tự do kinh doanh theo đúng tinh thần của Hiến pháp, muốn được giải thoát khỏi những thứ trói buộc vô lý để chớp lấy cơ hội, tả xung hữu đột, tự tin chiến đấu và chiến thắng trên thương trường. Nhưng nểu chỉ tháo gỡ bằng kiểu "cò kè bớt một thêm hai" điều kiện kinh doanh, thì chúng sẽ vẫn cứ luẩn quẩn trong mê hồn trận của điều kiện pháp lý, sẽ không thể thành công khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thật vô cùng thấm thía và vui mừng trước nhận định rất chuẩn xác của Tổng Bí thư Tô Lâm: Thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Vì vậy, cải cách thể chế chính là chìa khoá mở ra kỷ nguyên mới và bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bài 2: Giảm thiểu can thiệp vào thị trường là tăng cường cơ hội Kính mời quý độc giả đón đọc! -----------------Bất động sản (Chính sách & Cuộc sống) 28-02-2025:https://reatimes.vn/khat-vong-hung-cuong-the-che-la-chia-khoa-mo-ra-ky-nguyen-moi-202250227184302946.htm?(1.219/1.339).

Bình luận 

439. Bình luận về việc Đổi mới tư duy xây dựng pháp...

Bình luận về việc Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy...

Phỏng vấn 

4.444. Hàng loạt vụ lừa đảo đầu tư tiền ảo...

Hàng loạt vụ lừa đảo đầu tư tiền ảo mất tiền thật. (VTV1) -...

Trích dẫn 

4.001. Mất tiền, hủy tour vì bị cấm xuất cảnh.

Mất tiền, hủy tour vì bị cấm xuất cảnh. (GT) - Rất nhiều du khách ra...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 240,840