692. Cho ngân sách vay ngoại hối: Tăng giám sát tính hiệu quả

(DĐDN) –  Lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ giao NHNN chủ trì, phối hợp với 3 bộ: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, đề xuất cơ chế cho ngân sách vay từ nguồn dự trữ ngoại hối Nhà nước. 

ANZ ước tính dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào khoảng 3,1 tháng nhập khẩu và khá thấp so với một số nền kinh tếnhư Trung Quốc (CH), Đài Loan (TW), Philippines (PH), Singapore (SI)…

Mục đích để bổ sung vốn đầu tư phát triển, bảo đảm an toàn tài chính tiền tệ quốc gia. Vậy ở những quốc gia khác dự trữ ngoại hối được dùng vào việc gì và cho ngân sách vay tiền liệu có sinh lời và cần có cơ chế gì chống được rủi ro?

Không vì dự trữ ngoại hối VN còn “mỏng”…

Theo Nghị định số 50/2014/NĐ-CP của Chính phủ, dự trữ ngoại hối Nhà nước là tài sản bằng ngoại hối được thể hiện trong bảng cân đối tiền tệ của NHNN, bao gồm: dự trữ ngoại hối nhà nước chính thức (là phần tài sản bằng ngoại hối thuộc sở hữu Nhà nước được Chính phủ giao cho NHNN trực tiếp quản lý); tiền gửi ngoại tệ và vàng của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Kho bạc Nhà nước gửi tại NHNN các nguồn ngoại hối khác.

Theo các chuyên gia, quy mô dự trữ ngoại hối là một trong những chỉ số kinh tế quan trọng đối với các nền kinh tế, và sẽ đặc biệt quan trọng hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển. Nếu một quốc gia có nguồn dự trữ quá lớn thì sẽ làm phát sinh chi phí cho việc nắm giữ dự trữ ngoại hối, do lợi nhuận thu được từ đầu tư dự trữ ngoại hối thường thấp hơn chi phí đi vay vốn nước ngoài. Còn nếu quốc gia có một lượng dự trữ quá mỏng sẽ gây tác động tiêu cực tới khả năng thanh toán cũng như an ninh tài chính tiền tệ của mỗi quốc gia.

Năm 2007, ngay sau khi gia nhập WTO, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã liên tục tăng, đạt đỉnh vào tháng 7 năm 2008 khoảng 26 tỷ USD – mức cao nhất trong lịch sử. Sau đó, tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như các bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước đã khiến cho thị trường ngoại hối cũng như tỷ giá USD/VND liên tục bị biến động mạnh. Ðể bình ổn thị trường ngoại hối cũng như tỷ giá USD/VND, bên cạnh những biện pháp chính sách tiền tệ và hành chính, NHNN đã phải sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp vào thị trường khiến cho quỹ dự trữ ngoại hối giảm xuống mức đáy là 12,58 tỷ vào tháng 1/2011…

Theo công bố của NHNN mới đây, dự trữ ngoại hối quốc gia đạt kỷ lục 35 tỷ USD và được dự báo tiếp tục tăng cao trong năm nay. “Ðây là tiền đề thuận lợi để duy trì lòng tin về khả năng đảm bảo thanh toán nghĩa vụ nợ nước ngoài của nền kinh tế, khả năng hỗ trợ giá trị của VND, khả năng đảm bảo tài chính của quốc gia góp phần thu hút đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài…” – chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu nhận định.

Tuy nhiên, theo ngân hàng ANZ tại Việt Nam, dù dự trữ ngoại hối liên tục cải thiện trong 3 năm gần đây nhưng mức 35 tỷ USD vẫn là “mỏng” nếu so với các nước trong cùng khu vực. Thống kê của ngân hàng ANZ cho thấy, dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện có thể chịu đựng được khoảng 3,1 tháng nhập khẩu. Trong khi đó, nếu so sánh với các nước ở khu vực, đây là mức thấp nhất, chỉ bằng một nửa của Indonesia, một phần ba của Singapore và một phần tám Trung Quốc.

…mà để lãng phí tài lực

Theo LS Trương Thanh Đức – Giám đốc Công ty Luật TNHH ANVI, Chủ tịch Câu lạc bộ pháp chế ngân hàng, trọng tài viên VIAC: Về nguyên tắc, Bộ Tài chính quản lý ngân sách nhà nước. Dự trữ ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước quản lý. Hiểu đơn giản việc ngân sách vay dự trữ ngoại hối chỉ là bỏ từ túi nọ sang túi kia. Hoạt động này trước đây thực ra cũng đã từng được thực hiện. Nhưng lần này, việc vay được Thủ tướng chỉ đạo làm một cách bài bản và công khai minh bạch. Điều này thể hiện sự tiến bộ trong hoạt động điều hành, quản trị nhà nước đang ngày càng phát triển. Người dân ngày càng được biết, tham gia và giám sát nhiều hơn các hoạt động của nhà nước. Công khai minh bạch cũng tạo sức ép đối với Chính phủ trong kế hoạch vay, trả nợ. Đặc biệt, đây là những khoản vay ngắn hạn thì việc chi tiêu vào đâu, trả nợ ra sao càng trở thành một yêu cầu quan trọng.

Còn theo TS Đinh Thế Hiển – chuyên gia kinh tế, việc yêu cầu các Bộ ngành chức năng đề xuất cơ chế cho vay ngân sách từ nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia thoạt nghe có vẻ sẽ gây sốc, vì quỹ dự trữ ngoại hối VN còn “mỏng”, và yêu cầu quan trọng là cần phải làm dày thêm.

NHNN cần có cơ chế khuyến khích các ngân hàng thương mại mua để tăng nguồn kiều hối thu hút vào ngân hàng và bán cho NHNN.

Nhưng bên cạnh đó cũng cần có tư duy “thoáng” rằng: Bản chất của Quỹ ngoại hối quốc gia là không bất động. Nó có thể biến động dày lên hay mỏng đi. Và việc để bất động, “dự trữ”, ngoài ý nghĩa cơ bản như sự đảm bảo cần thiết cho niềm tin ổn định của đồng nội tệ, còn là sự đảm bảo cho niềm tin của đối tác làm ăn cùng VN. Song chính vì không “bất động” và mặc dù là dự trữ, nên vẫn có thể xây dựng một cơ chế chung, linh hoat, không để “lãng phí” tài lực. Vì vậy, nên xác định không chỉ là chuyện “cho vay ngân sách”, mà cần được đặt một tầm nhìn cao hơn, phổ quát hơn là Đề án Quản lí Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia – như vậy mọi chuyện sẽ rõ ràng, trong đó cho vay chỉ là một phần trong đề án, việc cho vay từ đó cũng không gây “sốc”, nếu chúng ta thực lực và thực có cơ chế cho vay.

Ông Hiển cho rằng, có một số điểm mà cơ chế cho vay, khi xây dựng, cần được quan tâm để đảm bảo tránh chuyện dùng “tiền túi trái sử dụng cho túi phải” và không hiệu quả cho nền kinh tế, cũng gây rủi ro cho dự trữ ngoại hối, là:

Thứ nhất, xây dựng cơ chế cho vay đảm bảo theo cơ chế thị trường, đáp ứng nguyên tắc bù trừ rủi ro, tức người (Chính phủ) sử dụng nguồn dự trữ quốc gia để chi cho ngân sách phải có kế hoạch đảm bảo khoản vay gần như loại trừ rùi ro, (theo xác suất thấp nhất), có nguồn thu cụ thể rõ ràng, ổn định. Theo đó, danh mục các đề án, mục sử dụng mà ngân sách sẽ dùng khoản vay nợ quỹ dự trữ  để chi phải được quy định rõ, phải có tiêu tiêu chí đó là những đề án, khoản chi ngân sách nào thì được dùng nguồn vốn vay đó. Quy định bao gồm hạn mức vay, hạn mức chi là bao nhiêu, thời gian trả nợ, mức lãi (nếu có)… Nên xác định chỉ những dự án có giá trị lớn với nền kinh tế, có thể cần vốn “mồi”/ đối ứng trước mắt để khởi động… mới được sử dụng nguồn vốn vay từ quỹ dự trữ, không phải sử dụng vốn vay từ quỹ dự trữ ngoại hối để trả nợ;

Thứ hai, cơ chế cho vay cũng cần bao gồm cơ chế giám sát giải ngân, sử dụng khoản vay;

Thứ ba, Đề án quản lí Quỹ dự trữ ngoại cũng cần có quy định rõ ở mức độ nào (bao nhiêu tuần/ tháng nhập khẩu trở lên) thì cơ quan quản lí có thể đề xuất cho vay một phần (và một phần là bao nhiêu cũng cần có nghiên cứu cụ thể) từ quỹ. Nên lưu ý đây là mấu chốt để tránh lạm dụng “rỗng” quỹ dự trữ ngoại hối và không chủ động được trong đảm bảo chính sách tiền tệ khi có biến động bất ngờ.

Thách thức tăng quy mô ngoại hối

Bà Nguyễn Thị Hồng – Phó Thống đốc NHNN:

Để đảm bảo an ninh tiền tệ và hỗ trợ cho ngân sách quốc gia cần tăng được quy mô của quỹ dự trữ ngoại hối. Đây là việc làm rất cần thiết nhưng cũng là một thách thức đối với VN, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay. Ðể làm được điều này, theo tôi cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Cải thiện cán cân thương mại và kiểm soát cán cân vãng lai… Lấy xuất nhập khẩu là thước đo quan trọng về mức độ mở cửa của nền kinh tế, đồng thời điều này cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến quy mô dự trữ ngoại hối của quốc gia đó.

Một quốc gia có cán cân thương mại càng thặng dư thì khả năng tích luỹ ngoại hối càng cao. Hiện NHNN thường xuyên kiểm soát được sự biến động của cán cân vãng lai làm cơ sở cho các quyết định dự trữ cũng như can thiệp trên thị trường.

Do vậy, các cơ quan Bộ, ngành cần xây dựng một cơ chế đồng bộ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng quan hệ thương mại với nước ngoài, nâng cao uy tín của VN trên trường quốc tế để qua đó thúc đẩy trao đổi thương mại với các quốc gia. Đồng thời để gia tăng quĩ ngoại hối cho quốc gia, VN cần có nhiều biện pháp thu hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua có sự gia tăng đáng kể, các tổ chức nước ngoài đã cam kết đầu tư vào Việt Nam với số tiền ngày càng cao, qua đó khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Nhưng trên thực tế, số vốn giải ngân trên số vốn cam kết vẫn ở mức thấp, nguồn vốn ODA giải ngân hàng năm chỉ đạt khoảng 50% cam kết.

Do đó, trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hành lang pháp lý tiếp tục thu hút thêm các nguồn vốn vào VN, góp phần mở rộng quy mô dự trữ ngoại hối.

Giám sát tính hiệu quả của các khoản vay

TS Cao Sỹ Kiêm – Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình, Nguyên thống đốc NHNN:

Việc ngân sách nhà nước vay dự trữ ngoại hối có thể được cho là phù hợp với Luật Ngân sách trong một số trường hợp nhưng phải thực hiện một cách chặt chẽ. Bởi vì theo Luật Ngân sách, khi có lý do chính đáng đáp ứng yêu cầu đột suất thì ngân sách nhà nước có thể được vay từ dự trữ ngoại hối. Trong trường hợp này lý do giảm thu từ xuất khẩu dầu thô 30% được cho là bất khả kháng. Ngoài ra, lý do giảm thu thuế vì các hiệp định thương mại tự do sắp có hiệu lực cũng được cho là chính đáng.

Tuy nhiên, việc vay này phải được Chính phủ giải trình và ấn định thời gian trả đầy đủ trong năm ngân sách. Thời hạn tối đa của khoản vay trên là 12 tháng. Đây thực tế chỉ là những khoản vay ngắn hạn, do đó tất cả các điều kiện phải chặt chẽ. Tôi đồng tình với hoạt động này của Chính phủ. Nhưng tôi cũng đề nghị Chính phủ giải trình xem khoản vay đó được sử dụng vào việc gì. Qua đó, Quốc hội cũng như nhân dân có thể giám sát tính hiệu quả của các khoản vay.

Cần đa dạng hóa cơ cấu ngoại tệ

Ông Cấn Văn Lực – Thành viên HĐQT Ngân hàng BIDV:

Trước khi cho ngân sách quốc gia vay tiền cần đa dạng hóa cơ cấu ngoại tệ trong thanh toán và dự trữ ngoại hối để góp phần giảm thiểu những tổn thất và rủi ro cho các DN nói riêng và bảo đảm an ninh tài chính tiền tệ. Việc đa dạng hóa tiền tệ trong thanh toán và dự trữ quốc tế cũng giúp cho nền kinh tế, và chính sách tiền tệ độc lập hơn. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, không phải dự trữ càng nhiều ngoại hối càng tốt. Việc tích luỹ quá nhiều ngoại hối có thể làm phát sinh thêm nhiều loại chi phí. Mặc dù thiệt hại từ việc mở rộng dự trữ ngoại hối của VN là chưa thể hiện, nhưng NHNN VN cần phải có tính toán cụ thể để xác định khối lượng dự trữ ngoại hối vừa đảm bảo đủ lớn, an toàn, vừa tạo hiệu quả cao cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, cơ chế điều hành tỷ giá cũng cần linh hoạt hơn để điều chuyển quĩ bình ổn tỷ giá và giá vàng sang quĩ dự trữ ngoại hối, đáp ứng nhu cầu thanh toán và trả nợ. Ðồng thời NHNN cần công bố công khai các số liệu cụ thể về dự trữ ngoại hối, cơ cấu dự trữ ngoại hối trên các phương tiện thông tin (cung cấp cho IMF) để các nhà nghiên cứu, các nhà đầu tư nước ngoài và nhân dân có thông tin chính xác về dự trữ ngoại hối của VN…

 

Mỹ Bá Phương

———–

Diễn đàn Doanh nghiệp (Tài chính – Ngân hàng) 07-5-2015:

http://dddn.com.vn/tai-chinh-ngan-hang/cho-ngan-sach-vay-ngoai-hoi-tang-giam-sat-tinh-hieu-qua-20150506093115600.htm

(185/2.451)

Bài viết 

312. Khát vọng hùng cường: Thể chế là chìa khoá...

Khát vọng hùng cường: Thể chế là chìa khoá mở ra Kỷ nguyên mới. (BĐS) - Chúng ta đang ở trong những thời khắc lịch sử rất quan trọng của đất nước. Sau mấy chục năm đổi mới và cải cách, chúng ta lại bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới bằng việc thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là cải cách thế chế.Lời tòa soạn:Cải cách thể chế và tôn trọng thị trường được xem là hai yếu tố then chốt, mở ra con đường phát triển bền vững cho mỗi quốc gia. Bài học từ những nền kinh tế thành công trên thế giới đã cho thấy, một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, cùng với sự tôn trọng các quy luật của thị trường, sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự sáng tạo và tăng trưởng.Vậy, thực trạng cải cách thể chế và sự vận hành của thị trường tại Việt Nam hiện nay ra sao? Những giải pháp nào cần được triển khai để khai phá tiềm năng phát triển của đất nước? Reatimes xin trân trọng giới thiệu chùm bài viết: Khát vọng hùng cường: Cải cách thể chế và tôn trọng thị trường là chìa khóa phát triển của Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC, một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý và kinh tế, về câu chuyện này. Sau khoảng thời gian dài đổi mới, bứt phá, chúng ta lại đang bị chậm chân và tụt hậu. Rất may là hiện chúng ta có rất nhiều cơ hội và lợi thế, trong đó có ba lợi thế dành cho tất cả mọi người, không loại trừ một ai. Đó là kinh doanh, tiêu dùng và hội nhập. Tôi cho rằng, thế giới nếu có, cùng lắm cũng chỉ một hay hai chứ không có được đồng thời ba lợi thế như chúng ta.Thứ nhất, doanh nhân và người dân đất nước ta chấp nhận rủi ro rất cao. Họ sẵn sàng đầu tư, sẵn sàng kinh doanh rất mạnh mẽ, kể cả trong nhiều lĩnh vực mạo hiểm.Thứ hai, doanh nghiệp và người dân chấp nhận hội nhập rất mạnh mẽ với hàng loạt các hiệp định, hiệp ước chúng ta tham gia và trên thực tế đã được biến thành hành động và cho kết quả rõ nét. Chúng ta sẵn sàng tham gia chuỗi cung ứng tiêu thụ toàn cầu. Chúng ta đã bắt nhanh và tận dụng được lợi thế của công nghệ, của trí tuệ nhân tạo, của những thành quả đổi mới. Ở nhiều nước khác, người ta phát triển, tăng tốc, đổi mới trong những giai đoạn chưa có những lợi thế này.Thứ ba, người tiêu dùng Việt Nam chi tiêu rất mạnh tay. Có thể nói, chúng ta chưa giầu nhưng rất "chịu chơi" và chịu chi, tức khả năng tiêu thụ rất mạnh hàng hóa, dịch vụ từ bình dân cho đến cao cấp.Thị trường 100 triệu dân chấp nhận rủi ro lớn, chấp nhận hội nhập cao và chấp nhận tiêu thụ mạnh là thị trường quá hấp dẫn và có rất nhiều cơ hội phát triển.Đấy là những cơ sở để chúng ta bứt phá trong sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh toàn cầu. Nhưng đẩy mạnh sản xuất, phát triển thương mại, dịch vụ hay gia tăng tiêu thụ thì cũng đều phụ thuộc rất nhiều vào thể chế.Cải cách thể chế - yếu tố then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ảnh: Chinhphu.vn.Chúng ta đã từng tiến rất nhanh, rất mạnh, rất tốt, như một giấc mơ và hơn cả giấc mơ mà thế giới cũng phải ghi nhận. Nhưng đó mới chỉ là so sánh với chính chúng ta, với mặt bằng khởi đầu rất thấp. Đã chấp nhận nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu, rộng toàn cầu mà chỉ so với chính mình thì không mấy ý nghĩa, thậm chí là vô nghĩa, là ru ngủ, là trì trệ, tụt hậu. Nếu như sắp tới không vượt qua chính mình thì chúng ta cũng vẫn cứ đi lên, vẫn cứ tiến bộ, vẫn cứ tăng trưởng vì là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, tiến lên kiểu nhờ nước nổi, bèo nổi thì không khác nào kiểu tư tưởng lội nước đi sau, bình chân như vại, được chăng hay chớ, theo đóm ăn tàn và sẽ chỉ quanh quẩn ở cuối, đi sau thiên hạ.Thách thức của chúng ta là buộc phải chạy đua với các nước trong lúc họ cũng rất nhanh, rất cởi mở, rất tạo điều kiện phát triển. Do đó, muốn bước vào kỷ nguyên mới thành công thì đừng ngủ mê trên thành tích.Chúng ta đã từng rất khốn khổ, nghèo đói vì chính sách phát triển không phù hợp quy luật thị trường, khiến kinh tế bị kìm hãm, lạc hậu. Nhưng chúng ra đã kịp nhận ra để thay đổi và phát triển với chính sách đúng đắn, rộng mở. Công cuộc đổi mới, cải cách đã được mở ra với những chính sách mạnh dạn phá rào để tháo gỡ điểm nghẽn dòng chảy lưu thông của hàng hoá nói chung và lương thực nói riêng trong cơ chế ngăn sông, cấm chợ, bóp nghẹt thị trường lúc đó.Đáng tiếc là những năm gần đây, nền kinh tế lại đang đối mặt trở lại với nguy cơ bị thắt chặt, trói buộc. Nhiều việc lớn, việc khó không được tháo gỡ, tạo điều kiện, mà chỉ muốn ngăn chặn, cấm đoán, có lẽ là do sợ chịu trách nhiệm và để "giữ an toàn". Những cái thông thường nhất, đơn giản nhất, dễ nhất thì nhiều khi cũng gây khó dễ, vòi vĩnh. Tiếp xúc với doanh nghiệp, người dân qua những câu chuyện hằng ngày mới thấy rằng, để đứng vững và phát triển, doanh nghiệp phải trả giá bằng muôn vàn bức xúc, chi phí không chính thức và những điều đáng buồn.Sau một thời gian xoá bỏ "giấy phép con", lại nảy sinh điều rất lo ngại vì nó bị biến thành "giấy phép cha" và "giấy phép vô hình". Với con số ước tính lên đến 16.000 điều kiện kinh doanh tại thời điểm này thì môi trường kinh doanh đã xấu đi quá nhanh, trắc trở khó ngờ. Đó là một vạn sáu nghìn sợi dây trói buộc doanh nghiệp, níu kéo doanh nhân, kìm hãm thị trường. Rất nhiều tiền bạc, công sức, nguồn lực xã hội bị hao hụt, tiêu tán, thui chột khi hoạt động giao thương rơi vào vô số sợi dây pháp lý hay phải vượt qua từng đó cái cửa lớn, nhỏ với những ổ khóa học búa.Doanh nghiệp muốn được thật sự tự do kinh doanh theo đúng tinh thần của Hiến pháp, muốn được giải thoát khỏi những thứ trói buộc vô lý để chớp lấy cơ hội, tả xung hữu đột, tự tin chiến đấu và chiến thắng trên thương trường. Nhưng nểu chỉ tháo gỡ bằng kiểu "cò kè bớt một thêm hai" điều kiện kinh doanh, thì chúng sẽ vẫn cứ luẩn quẩn trong mê hồn trận của điều kiện pháp lý, sẽ không thể thành công khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thật vô cùng thấm thía và vui mừng trước nhận định rất chuẩn xác của Tổng Bí thư Tô Lâm: Thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Vì vậy, cải cách thể chế chính là chìa khoá mở ra kỷ nguyên mới và bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bài 2: Giảm thiểu can thiệp vào thị trường là tăng cường cơ hội Kính mời quý độc giả đón đọc! -----------------Bất động sản (Chính sách & Cuộc sống) 28-02-2025:https://reatimes.vn/khat-vong-hung-cuong-the-che-la-chia-khoa-mo-ra-ky-nguyen-moi-202250227184302946.htm?(1.219/1.339).

Bình luận 

439. Bình luận về việc Đổi mới tư duy xây dựng pháp...

Bình luận về việc Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy...

Phỏng vấn 

4.444. Hàng loạt vụ lừa đảo đầu tư tiền ảo...

Hàng loạt vụ lừa đảo đầu tư tiền ảo mất tiền thật. (VTV1) -...

Trích dẫn 

4.001. Mất tiền, hủy tour vì bị cấm xuất cảnh.

Mất tiền, hủy tour vì bị cấm xuất cảnh. (GT) - Rất nhiều du khách ra...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 240,842