871. “Đang có nguy cơ cản trở tiến trình cải cách”

(HQ) – TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương trao đổi với phóng viên Báo Hải quan xung quanh những vướng mắc bãi bỏ các điều kiện đầu tư kinh doanh không phù hợp.

Ông đánh giá như thế nào về việc ban hành danh mục 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư năm 2014?

Một bước tiến của Luật Đầu tư năm 2014 là tập hợp, công bố được 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Nhưng thực ra đó vẫn là quá lớn và quá nhiều trong một nền kinh tế bình thường. Điều kiện kinh doanh nghĩa là hạn chế tự do kinh doanh, hạn chế gia nhập thị trường để bảo vệ một lợi ích chung nào đấy, khi ấy phải lý giải được lợi ích chung mà tôi bảo vệ phải có một cái lợi lớn hơn việc hạn chế gia nhập thị trường. Nhưng ở Việt Nam không ai tính đến điều đó cả.

267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện này là do Quốc hội yêu cầu phải có thì mới thông qua Luật Đầu tư. Cho nên nhiều ngành nghề đưa vào khi đó chưa có sự đánh giá đầy đủ, thuần túy chỉ tiến hành cơ học. Đọc hết những ngành nghề này với tư cách một người nghiên cứu lâu năm, tôi thấy có sự áp đặt, không có cơ sở thực tiễn, không có cơ sở khoa học.

Mặt khác, các điều kiện kinh doanh ấy hạn chế cạnh tranh, hạn chế tính sáng tạo, hạn chế sự đa dạng hóa sản phẩm và khả năng cung cấp sản phẩm tốt hơn. Nó làm tăng “quyền lực” can thiệp vào thị trường cho những người trong những ngành ấy. Họ không có xu hướng giảm giá và tăng tính năng động sáng tạo. Đây là một trong những nguyên nhân căn bản của việc tại sao giá cước vận tải không giảm dù giá xăng dầu giảm mạnh. Khi DN không thấy bị cạnh tranh, nếu làm không tốt vẫn không có DN nào thay thế được thì họ vẫn “bình chân như vại” và sống tốt.

Ý nghĩa của việc yêu cầu các điều kiện kinh doanh do bộ, ngành ban hành phải được nâng lên thành Nghị định là gì, thưa ông?

Khi các bộ không được ban hành điều kiện kinh doanh, mà phải do Chính phủ ban hành, thì những quy định ấy sẽ được nhiều người “nhòm ngó” hơn. Đơn vị soạn thảo Nghị định có thể vẫn tìm cách cài cắm quy định nào đó có lợi cho họ, nhưng họ không được tự tung tự tác đặt ra các điều kiện phục vụ lợi ích của chính họ như trước. Ý nghĩa đưa các điều kiện kinh doanh lên thành Nghị định là như thế. Muốn vậy, các bộ phải rà soát lại hàng nghìn điều kiện kinh doanh do họ đã ban hành. Điều kiện nào cần thiết và phù hợp mới được nâng lên thành Nghị định, còn không phải bãi bỏ từ 1-7-2016.

Nếu cải cách được như thế cũng là một thay đổi lớn, một cơ hội lớn cải thiện điều kiện kinh doanh.

Nhưng nhìn lại cho đến nay, trong báo cáo tổ công tác thi hành Luật DN, Luật Đầu tư vừa qua, đây vẫn là một kỳ vọng lớn về cải cách môi trường đầu tư kinh doanh. Nếu không làm triệt để thì trở thành một thất vọng với cộng đồng DN vì người ta kỳ vọng rất nhiều.

Thế nhưng, đang có nguy cơ cản trở tiến trình cải cách này. Trước hết, cùng với việc Luật Đầu tư có hiệu lực từ 1-7-2015 thì có 7 luật khác cùng ban hành. Trong 7 luật đó lại có những điều khoản quy định giao cho Bộ trưởng ban hành điều kiện kinh doanh. Điều này cho thấy việc thẩm tra Luật từ Quốc hội có vấn đề. Cải cách lớn về điều kiện kinh doanh của Luật Đầu tư có nguy cơ bị hạn chế tác dụng khi các luật chuyên ngành lại giao thẩm quyền về ban hành điều kiện kinh doanh cho các bộ trưởng. Khi mất thẩm quyền ở Luật Đầu tư thì “cài” thẩm quyền vào luật khác.

Tưởng như Luật Đầu tư đã rất rõ ràng, nhưng lại bị chính các luật khác ngăn cản. Các bộ bảo rõ ràng Quốc hội giao cho họ ban hành điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực phụ trách. Các Luật ấy cũng do Quốc hội ban hành và giao nhiệm vụ, có phải Luật Đầu tư cao hơn các luật khác đâu. Vậy là, thể chế đã vô hiệu hóa một phần cải cách của Luật Đầu tư, mà khi đã vô hiệu hóa một phần rồi thì nó có nguy cơ bị vô hiệu hóa toàn phần.

Có một số bộ phản ứng khá gay gắt và nói rằng những quy định họ ban hành không phải là điều kiện kinh doanh?

Thế nào là điều kiện kinh doanh cũng là vấn đề. Nhưng với một tâm thế muốn cải cách, muốn thay đổi thì chẳng có gì là khó cả. Về mặt pháp lý có thể không rõ ràng, nhưng về mặt khoa học rất rõ ràng.

Các bộ cũng có rà soát điều kiện kinh doanh thật, nhưng mới ở mức tập hợp lại các quy định điều kiện kinh doanh ở các Thông tư, chưa đánh giá tính hợp lý, cần thiết, tính hiệu quả, hiệu lực và đặc biệt là tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của DN để từ đó cải cách. Như thế việc nâng cấp các quy định về điều kiện kinh doanh từ Thông tư lên Nghị định chỉ ở mức nâng cấp cơ học, không thay đổi về chất lượng của điều kiện kinh doanh.

Tại sao một cải cách lớn có thể mang lại một sự thay đổi về chất đối với môi trường kinh doanh Việt Nam, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh mà làm trầy trật thế? Ở đây phải nói vai trò của các Bộ trưởng rất quan trọng. Có thể nói nhiệm kỳ vừa kết thúc các Bộ trưởng ít quan tâm đến vấn đề này. Hy vọng nhiệm kỳ mới đây các Bộ trưởng sẽ ý thức rõ nét hơn, nhất quán hơn về yêu cầu cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh từ hội nhập và yêu cầu nội tại của nền kinh tế. Đặc biệt là những đơn vị tổng hợp như Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải nắm vị trí tiên phong của cải cách, phải “gác cổng” để chỉ lọt qua được những văn bản có chất lượng, đáp ứng yêu cầu cải cách và cải thiện môi trường kinh doanh. Tiếp đến, không thể không có vai trò Thủ tướng.

Ở đây phải có quyết tâm về mặt chính trị, có nhận thức, có sự phối hợp trong nội bộ các cơ quan và giữa các cơ quan với nhau. Ngoài ra, cũng cần nhắc đến vai trò không kém phần quan trọng là truyền thông, báo chí. Nếu sợ truyền thông, giấu giếm vấn đề thì không phát huy được cải cách.

Xin cảm ơn ông!

Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam:

Lĩnh vực kinh doanh ngày càng đa dạng, luôn biến đổi, bộ máy Nhà nước thì lại hữu hạn. Do vậy, sứ mệnh của Nhà nước là phải bảo đảm không gian của quyền tự do kinh doanh rộng mở, chứ không phải từ sự hữu hạn của mình mà níu hẹp không gian này.

Có thể nói Luật DN 2005 và Luật Đầu tư 2014 đã tạo ra khung khổ cơ bản để kiểm soát các rào cản gia nhập thị trường ở Việt Nam. Lần đầu tiên, các mục tiêu của quy định về điều kiện kinh doanh được xác định và Danh mục đầy đủ các ngành, nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện được tập hợp trong một văn bản Luật. Đây được xem là một bước đột phá về tính minh bạch trong chính sách và kỳ vọng là “nút chặn” có hiệu quả việc ban hành các điều kiện kinh doanh một cách thiếu kiểm soát, bất hợp lý như trước đây.

Thế nhưng, dù đã có các cơ sở pháp lý để xác định các quy định về điều kiện kinh doanh như đã đề cập ở trên, thì thực tế vẫn có những bất cập lớn. Trước hết, theo báo cáo của Tổ Công tác thi hành Luật DN và Luật Đầu tư hiện có 16 ngành, nghề trong 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện chưa ban hành điều kiện đầu tư kinh doanh tương ứng. Như vậy, chưa bảo đảm thực thi quyền cho DN.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI:

Từ đầu năm 2016, taxi muốn chạy chính danh ở Hà Nội và TP.HCM thì phải sắm tối thiểu 50 xe, tình thành còn lại phải là 10 xe theo đúng Nghị định số 86/2014/NĐ-CP. Trước đó chỉ cần có 1 xe cũng được quyền gia nhập thị trường và cạnh tranh trên đường. Quy định đông xe được đồn đoán là nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân và nhàn thân cho cơ quan quản lý. Ý 1 rốt cuộc chỉ là mơ hồ, cảm tính, ý 2 cũng chưa khẳng định sai hay đúng, trúng hay trật.

Điều kiện kinh doanh mới toanh đó, có thể đúng với xã hội ta vào thế kỷ trước. Còn bây giờ, công nghệ cà thẻ, định vị, màn hình, hộp đen trang bị đến tận xe dù, mà cứ quản lý kiên trì định hướng thủ công thì cũng hơi kỳ cục. Quy định này khuyến khích độc quyền, hạn chế cạnh tranh và ngăn cản quyền tự do kinh doanh, nên đang tạm thời được nằm trong top 5 quy định tồi nhất theo bình chọn của cộng đồng DN.

Bà Nguyễn Minh Thảo, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương:

Có thể nói, các Bộ chưa chú ý rà soát, đánh giá bãi bỏ các điều kiện kinh doanh trái thẩm quyền không phù hợp, không cần thiết. Nhiều điều kiện đầu tư kinh doanh vẫn được ban hành trái thẩm quyền hoặc hết hiệu lực nhưng vẫn đang được áp dụng. Vì vậy, chất lượng của hệ thống các quy định điều kiện kinh doanh về cơ bản chưa có cải thiện so với trước. Cho nên các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần phải chấm dứt ngay việc này.

L.B (ghi)

Lương Bằng (ghi)

——————————————–

Hải Quan (Đối thoại) 20-4-2016:

http://www.baohaiquan.vn/Pages/Dang-co-nguy-co-can-tro-tien-trinh-cai-cach.aspx

(203/1.864)

Bài viết 

312. Khát vọng hùng cường: Thể chế là chìa khoá...

Khát vọng hùng cường: Thể chế là chìa khoá mở ra Kỷ nguyên mới. (BĐS) - Chúng ta đang ở trong những thời khắc lịch sử rất quan trọng của đất nước. Sau mấy chục năm đổi mới và cải cách, chúng ta lại bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới bằng việc thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là cải cách thế chế.Lời tòa soạn:Cải cách thể chế và tôn trọng thị trường được xem là hai yếu tố then chốt, mở ra con đường phát triển bền vững cho mỗi quốc gia. Bài học từ những nền kinh tế thành công trên thế giới đã cho thấy, một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, cùng với sự tôn trọng các quy luật của thị trường, sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự sáng tạo và tăng trưởng.Vậy, thực trạng cải cách thể chế và sự vận hành của thị trường tại Việt Nam hiện nay ra sao? Những giải pháp nào cần được triển khai để khai phá tiềm năng phát triển của đất nước? Reatimes xin trân trọng giới thiệu chùm bài viết: Khát vọng hùng cường: Cải cách thể chế và tôn trọng thị trường là chìa khóa phát triển của Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC, một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý và kinh tế, về câu chuyện này. Sau khoảng thời gian dài đổi mới, bứt phá, chúng ta lại đang bị chậm chân và tụt hậu. Rất may là hiện chúng ta có rất nhiều cơ hội và lợi thế, trong đó có ba lợi thế dành cho tất cả mọi người, không loại trừ một ai. Đó là kinh doanh, tiêu dùng và hội nhập. Tôi cho rằng, thế giới nếu có, cùng lắm cũng chỉ một hay hai chứ không có được đồng thời ba lợi thế như chúng ta.Thứ nhất, doanh nhân và người dân đất nước ta chấp nhận rủi ro rất cao. Họ sẵn sàng đầu tư, sẵn sàng kinh doanh rất mạnh mẽ, kể cả trong nhiều lĩnh vực mạo hiểm.Thứ hai, doanh nghiệp và người dân chấp nhận hội nhập rất mạnh mẽ với hàng loạt các hiệp định, hiệp ước chúng ta tham gia và trên thực tế đã được biến thành hành động và cho kết quả rõ nét. Chúng ta sẵn sàng tham gia chuỗi cung ứng tiêu thụ toàn cầu. Chúng ta đã bắt nhanh và tận dụng được lợi thế của công nghệ, của trí tuệ nhân tạo, của những thành quả đổi mới. Ở nhiều nước khác, người ta phát triển, tăng tốc, đổi mới trong những giai đoạn chưa có những lợi thế này.Thứ ba, người tiêu dùng Việt Nam chi tiêu rất mạnh tay. Có thể nói, chúng ta chưa giầu nhưng rất "chịu chơi" và chịu chi, tức khả năng tiêu thụ rất mạnh hàng hóa, dịch vụ từ bình dân cho đến cao cấp.Thị trường 100 triệu dân chấp nhận rủi ro lớn, chấp nhận hội nhập cao và chấp nhận tiêu thụ mạnh là thị trường quá hấp dẫn và có rất nhiều cơ hội phát triển.Đấy là những cơ sở để chúng ta bứt phá trong sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh toàn cầu. Nhưng đẩy mạnh sản xuất, phát triển thương mại, dịch vụ hay gia tăng tiêu thụ thì cũng đều phụ thuộc rất nhiều vào thể chế.Cải cách thể chế - yếu tố then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ảnh: Chinhphu.vn.Chúng ta đã từng tiến rất nhanh, rất mạnh, rất tốt, như một giấc mơ và hơn cả giấc mơ mà thế giới cũng phải ghi nhận. Nhưng đó mới chỉ là so sánh với chính chúng ta, với mặt bằng khởi đầu rất thấp. Đã chấp nhận nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu, rộng toàn cầu mà chỉ so với chính mình thì không mấy ý nghĩa, thậm chí là vô nghĩa, là ru ngủ, là trì trệ, tụt hậu. Nếu như sắp tới không vượt qua chính mình thì chúng ta cũng vẫn cứ đi lên, vẫn cứ tiến bộ, vẫn cứ tăng trưởng vì là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, tiến lên kiểu nhờ nước nổi, bèo nổi thì không khác nào kiểu tư tưởng lội nước đi sau, bình chân như vại, được chăng hay chớ, theo đóm ăn tàn và sẽ chỉ quanh quẩn ở cuối, đi sau thiên hạ.Thách thức của chúng ta là buộc phải chạy đua với các nước trong lúc họ cũng rất nhanh, rất cởi mở, rất tạo điều kiện phát triển. Do đó, muốn bước vào kỷ nguyên mới thành công thì đừng ngủ mê trên thành tích.Chúng ta đã từng rất khốn khổ, nghèo đói vì chính sách phát triển không phù hợp quy luật thị trường, khiến kinh tế bị kìm hãm, lạc hậu. Nhưng chúng ra đã kịp nhận ra để thay đổi và phát triển với chính sách đúng đắn, rộng mở. Công cuộc đổi mới, cải cách đã được mở ra với những chính sách mạnh dạn phá rào để tháo gỡ điểm nghẽn dòng chảy lưu thông của hàng hoá nói chung và lương thực nói riêng trong cơ chế ngăn sông, cấm chợ, bóp nghẹt thị trường lúc đó.Đáng tiếc là những năm gần đây, nền kinh tế lại đang đối mặt trở lại với nguy cơ bị thắt chặt, trói buộc. Nhiều việc lớn, việc khó không được tháo gỡ, tạo điều kiện, mà chỉ muốn ngăn chặn, cấm đoán, có lẽ là do sợ chịu trách nhiệm và để "giữ an toàn". Những cái thông thường nhất, đơn giản nhất, dễ nhất thì nhiều khi cũng gây khó dễ, vòi vĩnh. Tiếp xúc với doanh nghiệp, người dân qua những câu chuyện hằng ngày mới thấy rằng, để đứng vững và phát triển, doanh nghiệp phải trả giá bằng muôn vàn bức xúc, chi phí không chính thức và những điều đáng buồn.Sau một thời gian xoá bỏ "giấy phép con", lại nảy sinh điều rất lo ngại vì nó bị biến thành "giấy phép cha" và "giấy phép vô hình". Với con số ước tính lên đến 16.000 điều kiện kinh doanh tại thời điểm này thì môi trường kinh doanh đã xấu đi quá nhanh, trắc trở khó ngờ. Đó là một vạn sáu nghìn sợi dây trói buộc doanh nghiệp, níu kéo doanh nhân, kìm hãm thị trường. Rất nhiều tiền bạc, công sức, nguồn lực xã hội bị hao hụt, tiêu tán, thui chột khi hoạt động giao thương rơi vào vô số sợi dây pháp lý hay phải vượt qua từng đó cái cửa lớn, nhỏ với những ổ khóa học búa.Doanh nghiệp muốn được thật sự tự do kinh doanh theo đúng tinh thần của Hiến pháp, muốn được giải thoát khỏi những thứ trói buộc vô lý để chớp lấy cơ hội, tả xung hữu đột, tự tin chiến đấu và chiến thắng trên thương trường. Nhưng nểu chỉ tháo gỡ bằng kiểu "cò kè bớt một thêm hai" điều kiện kinh doanh, thì chúng sẽ vẫn cứ luẩn quẩn trong mê hồn trận của điều kiện pháp lý, sẽ không thể thành công khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thật vô cùng thấm thía và vui mừng trước nhận định rất chuẩn xác của Tổng Bí thư Tô Lâm: Thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Vì vậy, cải cách thể chế chính là chìa khoá mở ra kỷ nguyên mới và bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bài 2: Giảm thiểu can thiệp vào thị trường là tăng cường cơ hội Kính mời quý độc giả đón đọc! -----------------Bất động sản (Chính sách & Cuộc sống) 28-02-2025:https://reatimes.vn/khat-vong-hung-cuong-the-che-la-chia-khoa-mo-ra-ky-nguyen-moi-202250227184302946.htm?(1.219/1.339).

Bình luận 

439. Bình luận về việc Đổi mới tư duy xây dựng pháp...

Bình luận về việc Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy...

Phỏng vấn 

4.444. Hàng loạt vụ lừa đảo đầu tư tiền ảo...

Hàng loạt vụ lừa đảo đầu tư tiền ảo mất tiền thật. (VTV1) -...

Trích dẫn 

4.001. Mất tiền, hủy tour vì bị cấm xuất cảnh.

Mất tiền, hủy tour vì bị cấm xuất cảnh. (GT) - Rất nhiều du khách ra...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 240,845