1.529. Đề xuất đánh thuế lãi tiền gửi tiết kiệm: lợi bất cập hại

(ĐBND) – Liên quan đến lĩnh vực thuế, những ngày gần đây, xã hội đang “sôi sục” trước các đề xuất tăng thuế của Bộ Tài chính. Khi câu chuyện tăng thuế VAT vẫn đang trong tranh luận, chưa đi tới hồi kết thì người ta lại đề xuất đánh thuế đối với nhiều hoạt động khác. Trong đó, đáng chú ý là đề xuất đánh thuế đối với tiền gửi ngân hàng. Liệu việc đánh thuế trong trường hợp này sẽ mang lại hiệu quả như mong muốn hay sẽ gây ra những phản ứng tiêu cực trong xã hội?

Tại Hội thảo lấy ý kiến sửa 5 Luật Thuế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), luật sư Trương Thanh Đức (Giám đốc Công ty Luật ANVI) đã đề xuất đánh thuế thu nhập từ lãi tiết kiệm (với những khoản lãi lớn, hàng trăm triệu đồng). Với quan điểm: “Lâu nay chúng ta đã quá yêu chiều ngành ngân hàng. Nhiều người thu nhập từ tiết kiệm ngân hàng tới hai trăm triệu đồng thì như vậy phải gọi là đầu tư rồi”. Do vậy, với những khoản gửi lớn, chúng ta phải tiến hành thu thuế thu nhập để tăng nguồn thu, bảo đảm công bằng.

Ở một góc độ nhất định, đề xuất trên của luật sư Đức là có lý (bởi những người có thu nhập từ 108 triệu đồng đã phải đóng thuế thu nhập nên nếu một người có lãi tiền gửi lên đến 200 triệu một năm phải nộp thuế cũng dễ hiểu). Tuy nhiên, khi đưa đề xuất trên vào bối cảnh thực tiễn hiện nay thì không khó để nhận ra một điều: lợi bất cập hại.

Đề xuất không phù hợp với chủ trương

Hồi tháng 7 vừa qua, trong phiên làm việc của tổ công tác Thủ tướng với ngân hàng Nhà nước kiểm tra các nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng giao, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng đã truyền đạt ý kiến của Thủ tướng về việc huy động tiền trong dân.

Theo đó, Thủ tướng chỉ đạo sớm có chủ trương huy động nguồn lực trong dân, đặc biệt là nguồn lực đô la Mỹ, vàng đang nằm trong dân. Tuy nhiên, với đề nghị đánh thuế thu nhập đối với tiền gửi ngân hàng của Luật sư Trương Thành Đức, ta không khó để nhận thấy, nếu việc này thành hiện thực thì chỉ đạo trên của Thủ tướng sẽ rất khó để thực hiện.

Trong bối cảnh hiện nay, khi mà việc gửi tiền tại ngân hàng vẫn chưa bị thu bất cứ khoản thuế, phí và lệ phí nào, người dân đã hạn chế gửi tiền vào ngân hàng thì nếu chúng ta đánh thuế vào hoạt động này, chắc chắn người dân sẽ ngày càng thắt chặt việc gửi tiền. Chúng ta phải thừa nhận một thực trạng, rõ ràng hiện nay, người dân Việt Nam chưa có thói quen gửi “tiền nhàn rỗi” vào ngân hàng. Mặt khác, hàng loạt các tiêu cực, tham nhũng trong ngân hàng bị phanh phui thời gian gần đây cũng khiến niềm tin của người dân vào ngân hàng không cao. Chính vì vậy, nếu ta tiếp tục đánh thuế đối với tiền gửi ngân hàng thì điều này sẽ chẳng khác gì việc Nhà nước chủ động “thu nhỏ” con đường gửi tiền vào ngân hàng của người dân. Như vậy, điều này là trái ngược hoàn toàn với chủ trương huy động tiền nhàn rỗi trong dân như Thủ tướng đã chỉ đạo ở trên.

Lãi suất tiền gửi ngân hàng sẽ bị đánh thuế?

Lợi bất cập hại

Suy cho cùng, mục đích của việc thu thuế là gì? Đơn giản, ta có thể hiểu đây là việc Nhà nước thu lại một phần tài sản trong xã hội để phục vụ các yêu cầu duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, chi phí xây dựng cơ bản và hơn hết là để có nguồn tài chính phục vụ các hoạt động thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Như vậy, để xem xét hiệu quả của việc đánh thuế này, ta cùng xem xét những cái được, mất khi thu thuế để từ đó đánh giá tính hợp lý của đề xuất.

Thứ nhất, về cái được, đơn giản và dễ thấy là ta sẽ có thêm một khoản thu bổ sung vào quỹ ngân sách Nhà nước. Do đó, Nhà nước sẽ có thêm tiền phục vụ cho các hoạt động của mình. Tuy nhiên, theo ý kiến cá nhân của người viết, nguồn thu này cũng không đóng góp được nhiều cho qũy ngân sách nhà nước.

Thứ hai, về cái mất.

Trong nội dung này, tôi có thể nghĩ đến rất nhiều cái mất. Tuy nhiên, tôi chỉ xin chỉ ra một số cái mất dễ nhận thấy nhất như sau:

Thị trường tài chính bị biến động

Như chúng ta đã biết, bản chất của hoạt động ngân hàng là kinh doanh tiền. Theo đó, ngân hàng sẽ vay ở những người có tiền nhàn rỗi và cho những người cần dùng vốn vay lại. Trong đó, một trong những cách vay tiền của ngân hàng là nhận tiền gửi từ người dân. Từ đây, ta có thể thấy người gửi tiền là mắt xích đầu tiên trong một chu trình vốn (người gửi tiền -> Ngân hàng -> người vay tiền).

Chính vì vậy, một khi ta thu thuế tiền gửi thì người dân sẽ hạn chế gửi tiền vào ngân hàng. Do đó, chu trình lưu thông vốn kể trên sẽ xảy ra thay đổi ngay từ mắt xích đầu tiên. Kết quả của việc này là ngân hàng không huy động được tiền để cho vay, từ đó dẫn đến việc người cần tiền sẽ không thể vay được tiền từ ngân hàng, các hoạt động sản xuất, kinh doanh bị ngưng trệ do thiếu vốn. Như vậy, tiền nhàn rỗi vẫn nằm “chết” trong dân. Trong khi đó, người thiếu vốn lại không thể tiếp cận nguồn tiền.

Lòng tin của người dân vào Nhà nước bị ảnh hưởng tiêu cực

Một điều rõ ràng là khi đánh thuế thì sẽ gây ra phản ứng thuế trong dân. Mặt khác, thuế thu nhập là một trong những loại thuế trực thu (người chịu thuế đồng thời là người trực tiếp nộp thuế) nên phản ứng thuế của người dân sẽ mạnh mẽ hơn nhiều so với các loại thuế gián thu.

Mặt khác, trong bối cảnh Nhà nước đang thu thuế theo kiểu “tận thu” như thời gian qua, khi mà người ta hết đề nghị tăng thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu lại tiếp tục ý kiến tăng thuế xuất thuế VAT, thì chỉ cần một vấn đề nhỏ liên quan đến thuế cũng khiến người dân cảm thấy không hài lòng. Có thể nói, thuế là vấn đề nhạy cảm trong thời gian gần đây. Chính vì vậy, việc đề xuất thu thuế thu nhập đối với tiền gửi thời gian này là không hợp lý. Chẳng vậy mà ngay khi đề xuất này được đưa ra, vô số ý kiến phản đối từ phía người dân đã nổ ra.

Như vậy, nếu so cái được và mất thì ta dễ nhận thấy cái mất lớn hơn nhiều. Thị trường biến động, lòng dân biến đông. Nếu là người sáng suốt, sẽ chẳng ai lựa chọn bỏ ra nhiều vốn như vậy để thu thêm một khoản tiền (chưa xác định là bao nhiêu) vào ngân sách.

Khó thu thuế

Một vấn đề mà người ta phải quan tâm khi đưa ra một đạo luật thuế bên cạnh việc đánh giá xem nó có gây phản ứng xã hội hay không là vấn đề làm sao thu thuế. Rõ ràng, nếu cứ “cố tình” đưa ra luật nhưng khả năng thu không cao thì chẳng khác nào làm cho có, làm cho vui. Điều này không những không mang lại hiệu quả mà còn gây ra một sự lãng phí lớn khi mất đi một khoản nhân lực, tài lực lớn để xây dụng đạo luật.

Nếu tôi là người có tiền dư thừa, một khi Nhà nước thu thuế thu nhập với tiền gửi ngân hàng thì tôi sẽ không gửi tiền vào ngân hàng? Tại sao ư, đơn giản vì tôi có vô số cách tiêu tiền khác. Và như tâm lý chung của người Việt, khi có tiền rảnh rỗi thì sẽ đầu tư vào đất, nhà. Điều này khiến cho tôi cảm thấy an toàn hơn nhiều so với gửi tiền ngân hàng. Trường hợp này, ngân hàng sẽ chẳng thể huy động vốn chứ đừng nói đến việc thu thuế.

Hoặc giả trong trường hợp gửi tiền vào ngân hàng, tôi cũng sẽ tìm cách “lách” để không phải nộp thuế. Theo đề xuất của vị luật sư trên, ông cho rằng phải thu thuế thu nhập với khoản tiền gửi có lãi lớn từ 200 triệu trở lên. Để có khoản lãi này, theo mức lãi suất huy động kỳ hạn một năm hiện nay khoảng 6-7% một năm, để thu về khoản lãi 200 triệu đồng một năm từ tiền tiết kiệm, khách hàng phải mở sổ giá trị khoảng gần 3 tỷ đồng. Như vậy, thật đơn giản, trong trường hợp phải gửi tiền vào ngân hàng tôi sẽ chia nhỏ số tiền, gửi vào nhiều ngân hàng và cho nhiều người thân đứng tên gửi. Khi đó, khoản lãi của tôi ở từng nơi là ít hơn khoản tiền đến mức nộp thuế. Do đó, nghiễm nhiên tôi cũng chẳng phải nộp thuế.

Trên cơ sở những nhận định, phân tích trên, cá nhân người viết cho rằng đề xuất đánh thuế thu nhập đối với tiền gửi vào lúc này là không thực sự hợp lý. Đặc biệt, trong bối cảnh người dân đang bức xúc trước các đề xuất tăng thuế suất đối với nhiều loại thuế của Bộ Tài chính thời gian gần đây, việc đề nghị thu một loại thuế mới rất có thể là “giọt nước tràn ly” khiến cho xã hội trở nên phức tạp hơn, lòng dân bất ổn hơn. Chính vì vậy, thay vì suốt ngày chăm chăm tìm cách thu thuế, các nhà quản lý nên học cách sử dụng thuế sao cho hợp lý thì sẽ đúng hơn.

CTV Đông Phong

——————

Đại biểu Nhân dân (Cư dân mạng) 19-9-2017:

http://quochoi.org/de-xuat-danh-thue-lai-tien-gui-tiet-kiem-loi-bat-cap-hai.html\

(110/1.792)

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,969