1.544. Sửa đổi 5 luật thuế: Tác động thế nào tới cộng đồng doanh nghiệp?

(KTNN) – Với 30 chính sách thuế được sửa đổi có tác động lớn đến nhiều ngành, nghề khác nhau, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và Luật Thuế tài nguyên tiếp tục thu hút sự quan tâm góp ý của nhiều DN và chuyên gia.

Tác động rộng khắp đến nhiều DN, ngành, nghề

Trong 5 Luật trên, luật thu hút sự quan tâm của cộng đồng DN nhất chính là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT. Ông Bùi Ngọc Tuấn – Phó Tổng Giám đốc dịch vụ tư vấn thuế Công ty TNHH Deloitte Việt Nam – cho rằng: Việc bỏ quy định chuyển quyền sử dụng đất từ đối tượng không chịu thuế sang chịu Thuế GTGT với mức thuế suất thông thường 10% sẽ dẫn đến hiện tượng phí chồng phí, ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, thị trường bất động sản…

Thực tế cho thấy, phân loại và xác định quyền sử dụng đất là đối tượng không chịu thuế như hiện hành là phù hợp với bản chất của Thuế GTGT, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Do đó, ông Tuấn kiến nghị, Bộ Tài chính nên cân nhắc loại trừ chuyển quyền sử dụng đất khỏi đối tượng chịu Thuế GTGT.

Mặt khác, để tháo gỡ vướng mắc trong triển khai quy định không hoàn Thuế GTGT theo Luật số 106/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB và Luật Quản lý thuế, ông Tuấn đề xuất, Luật này cần sửa lại theo hướng hoàn Thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất bán vào khu phi thuế quan, xuất khẩu ra nước ngoài hoặc xuất trả lại chủ hàng, thực hiện xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn.

Liên quan đến Thuế TNDN, luật sư Trương Thanh Đức – Giám đốc Công ty Luật ANVI – khuyến nghị, Dự thảo Luật không nên áp dụng mức thuế suất khác nhau 15 – 17 – 20% theo quy mô doanh thu, lao động. Điều này không có nhiều ý nghĩa trong thực tế, dễ bị gian lận, lợi dụng, vô tình khuyến khích DN duy trì quy mô nhỏ, khó phát huy được lợi thế cạnh tranh.

Một vấn đề khác được nêu trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung 5 Luật thuế lần này là bổ sung các loại nước ngọt có ga, không ga, nước tăng lực, trà, cà phê uống liền được đóng gói theo dây chuyền sản xuất công nghiệp (trừ nước trái cây, nước rau quả 100% tự nhiên, sữa và các sản phẩm sữa) vào đối tượng chịu Thuế TTĐB.

Đặt giả thiết nếu Dự án Luật này được thông qua, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam Nguyễn Tiến Vỵ nhận định, các DN sản xuất, kinh doanh nước giải khát sẽ phải chịu nhiều loại thuế với mức tăng như sau: Thuế GTGT tăng từ 10% lên 12%, Thuế TTĐB đối với DN sản xuất nước ngọt là 10%, mức thuế suất Thuế GTGT áp dụng cho đường tăng từ 5% lên 6%. Khi đó, giá các sản phẩm nước giải khát trên thị trường sẽ tăng khoảng 12%, đồng thời chi phí sản xuất sẽ tăng lên.

Điều này có thể dẫn đến việc giảm khả năng tiêu thụ sản phẩm, doanh thu và quy mô sản xuất… Hơn nữa, giá bán cao còn có khả năng tạo kẽ hở cho hàng nhập lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng tràn lan. Từ đây, ông Vỵ kiến nghị, Bộ Tài chính xem xét áp Thuế TTĐB đối với tất cả các hàng hóa thực phẩm có chứa đường ở một mức thuế thấp, hoặc chỉ áp thuế đối với những sản phẩm nước ngọt có hàm lượng đường cao.

Sửa Luật phải đảm bảo tính bền vững

Bên cạnh đó, góp ý vào dự thảo sửa đổi, bổ sung 5 Luật thuế, cộng đồng DN còn gửi đến cơ quan soạn thảo nhiều kiến nghị liên quan đến các quy định về vốn mỏng, chuyển nhượng vốn, chuyển tiếp ưu đãi, xác định giá tính Thuế Tài nguyên… Điều này cho thấy, việc điều chỉnh chính sách thuế tác động lớn tới nền kinh tế. Tuy nhiên, để nhìn nhận rõ hơn những ảnh hưởng này, theo các chuyên gia, cơ quan soạn thảo vẫn cần có thêm bản đánh giá tác động chi tiết việc sửa đổi 5 Luật thuế đối với tổng thể nền kinh tế cũng như các DN.

Theo đó, Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan kỳ vọng, bản đánh giá tác động sẽ phải giải đáp được một số câu hỏi. Cụ thể, sau khi điều chỉnh 5 Luật thuế này, thu ngân sách sẽ tăng lên bao nhiêu? Dự án Luật đã lường hết được những tác động đối với DN hay chưa? Ngành, nghề nào sẽ chịu thua thiệt lớn? Việc sửa đổi này có phù hợp với chủ trương tái cơ cấu kinh tế không? Mặt khác, việc đánh giá tác động của Dự án Luật phải do các cơ quan độc lập, khách quan, nếu chính cơ quan sửa chính sách đánh giá thì kết quả sẽ không thể toàn diện.

Thêm nữa, điều mà các chuyên gia băn khoăn là tính bền vững của việc sửa đổi 5 Luật thuế. Sửa Luật để cơ cấu lại nguồn thu ngân sách, song “việc tăng thu này liệu có bền vững hay chỉ đảm bảo trong một, hai năm rồi chúng ta lại điều chỉnh tiếp?” – bà Phạm Chi Lan đặt câu hỏi.

Cùng băn khoăn trên, ông Đào Huy Giám – Tổng Thư ký Diễn đàn Kinh tế tư nhân, nguyên Trưởng cơ quan đại diện Thương mại Việt Nam tại WTO – nêu quan điểm: DN và người dân luôn kỳ vọng một hệ thống thuế hoàn chỉnh và có tính ổn định. Do vậy, trong quá trình xây dựng pháp luật, chúng ta cần cân nhắc để tránh phải điều chỉnh liên tục.

Sau 5 năm, trong 5 Luật trên, chúng ta đã sửa tới 4 Luật (1 Luật được thực thi trong 9 năm). Trong quá trình sửa đổi, bổ sung lần này, chúng ta nên rút kinh nghiệm làm sao để nếu Quốc hội đồng ý thông qua thì các luật mang tính ổn định hơn và được áp dụng lâu dài trong thực tế. Nếu một vài năm, Luật lại phải sửa một lần thì chúng ta vẫn còn có mặt hạn chế.

NGỌC MAI
Theo tuần báo số ra ngày 21/9/201

——————

Kiểm toán (Thị trường) 25-9-2017:

http://www.baokiemtoannhanuoc.vn/thi-truong/sua-doi-5-luat-thue-tac-dong-the-nao-toi-cong-dong-doanh-nghiep-137767

(79/1.196)

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,970