(TP) – Chiều 24/1/2018, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam vừa có Công văn số 15, do Tổng thư ký Nguyễn Toàn Thắng ký gửi Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; Ban Nội chính Trung ương; Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao; Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Chủ toạ Hội đồng xét xử Vụ án Phạm Công Danh giai đoạn 2; Toà án nhân dân TP HCM; Viện Kiểm sát Nhân dân TP HCM. Công văn nêu phản ánh của 3 ngân hàng thương mại về nội dung liên quan vụ án Phạm Công Danh và đề nghị cấp lãnh đạo có thẩm quyền “xem xét, cân nhắc có chỉ đạo xử lý phù hợp vụ việc”.
Công văn cho biết, Hiệp hội Ngân hàng nhận được Công văn của 3 gân hàng hội viên: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); Công văn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và Công văn của Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) phản ảnh về diễn biến tại phiên tòa xét xử vụ án Phạm Công Danh và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng (VNCB). Theo đó, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại toà ngày 22/1/2018 có đặt ra vấn đề buộc thu hồi 6.126.839.273.721 đồng từ BIDV, Sacombank, TPBank để khắc phục hậu quả cho thiệt hại của VNCB.
Hiệp hội Ngân hàng đã trình bày ký kiến của mình với Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan chức năng. Cụ thể, Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, Tổ Giám định độc lập của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã khẳng định, 3 ngân hàng BIDV, Sacombank, TPbank đã thu hồi nợ vay của khách hàng đúng quy định và thoả thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký và không có thiệt hại xảy ra tại 3 ngân hàng này. Vì vậy việc thực hiện như kiến nghị trên của đại diện Viện Kiểm sát TPHCM sẽ “tạo tiền lệ bất lợi, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động của các ngân hàng”.
Công văn chỉ ra các lý do để kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét lại đề xuất thu hồi tiền của 3 ngân hàng, tránh cản trở cho hoạt động của ngân hàng:
Thứ nhất, theo pháp luật hiện hành, các ngân hàng cho vay không có trách nhiệm phải tìm hiểu và xác minh nguồn gốc số tiền trên tài khoản thanh toán của bên vay (con nợ) trước khi thu nợ. Trên thực tế, nếu buộc các ngân hàng phải xác minh về nguồn gốc số tiền thu nợ thì sẽ phát sinh rất nhiều khó khăn, thủ tục hành chính và chi phí cho các ngân hàng và khách hàng. Ngoài ra, các ngân hàng không đủ điều kiện, cơ sở để thực hiện việc xác minh này;
Thứ hai, giao dịch phát sinh từ các hợp đồng tín dụng của các ngân hàng với khách hàng là giao dịch hợp pháp thì việc thu nợ từ tài khoản của bên có nghĩa vụ là ngay tình và được pháp luật bảo vệ (Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015). Việc thực hiện yêu cầu trên sẽ không bảo đảm quyền và lợi ích của các ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, nếu thu tiền, có thể dẫn đến hàng loạt các giao dịch vay vốn, gửi tiền với giá trị nhiều tỷ đồng có nguy cơ xảy ra tranh chấp, làm xáo trộn các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại hợp pháp, hợp lệ đang vận hành bình thường, không gặp vướng mắc gì. Theo đó, số tiền đã thu nợ hợp pháp, hợp lệ và được tất toán từ nhiều năm trước bất cứ khi nào cũng có thể bị bên vay lật lại, đòi lại vì cho rằng, nguồn tiền đã trả nợ không hợp pháp hoặc bị thu hồi theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ tư, gia tăng rủi ro pháp lý không dự liệu được cho các tổ chức tín dụng, khách hàng vay và người gửi tiền, làm xáo trộn môi trường kinh doanh, khách hàng mất niềm tin vào các tổ chức tín dụng, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ không an tâm hoạt động, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”
Hiệp hội Ngân hàng đề nghị cấp lãnh đạo có thẩm quyền xem xét, cân nhắc có chỉ đạo xử lý phù hợp vụ việc.
Theo Luật sư Trương Thanh Đức, Công ty Luật ANVI đồng thời là thành viên Câu lạc bộ pháp chế ngân hàng, kiến nghị thu hồi hơn 6.126 tỷ đồng từ các ngân hàng BIDV, Sacombank, TPBank để khắc phục hậu quả (trong đó, khoản tiền từ BIDV là hơn 2.550 tỷ đồng) nguy cơ thu nợ đúng thành sai. Lý do là kết luận Giám định của Ngân hàng Nhà nước đã xác định rõ: Việc BIDV thực hiện thu hồi nợ là đúng quy định của pháp luật và thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, tức mặc nhiên thừa nhận nguồn tiền thu nợ từ tài khoản của chính các khách hàng vay là hợp pháp.
Nếu đặt vấn đề xem xét tính hợp pháp của nguồn trả nợ có nghĩa là, bất cứ việc thu hồi nợ nào của tổ chức tín dụng (TCTD) từ tài khoản của khách hàng cũng đòi hỏi phải chứng minh nguồn tiền trả nợ là hợp pháp. Đó là yêu cầu bất hợp lý, trái với quy định của pháp luật ngân hàng.
Việc không truy hồi các nguồn tiền đã thu nợ một cách hợp pháp là phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo sự an an toàn tối thiểu cho các TCTD (kể cả các TCTD nước ngoài).
BIDV đã thu nợ của 12 Công ty do VNCB giới thiệu một cách hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật, hợp lệ theo đúng thông lệ thị trường trong nước và quốc tế. Nếu lật lại vấn đề, thì sẽ gây nguy cơ rất lớn cho thị trường tài chính tín dụng, đặc biệt sẽ cản trở hoạt động thu hồi nợ nói chung, nợ xấu nói riêng. Cho vay thì phải thẩm định, xem xét kỹ lưỡng, nhưng nếu thu nợ cũng phải điều tra, xác minh để chọn đúng tiền thu thì sẽ là chuyện đánh đố, trong khi pháp luật không có quy định rằng ngân hàng buộc phải biết nguồn gốc của số tiền trả nợ.
QUYỀN THÀNH
—————————
Tiền phong (Phâp luật) 26-01-2018:
(119/1.228)