2.748. Xử lý nợ xấu trong đại dịch COVID-19

(TP) – Lũy kế từ 15/8/2017 đến 30/4/2021, hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý gần 350 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42, đạt trung bình khoảng 8 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn khoảng 2 lần so với kết quả xử lý nợ xấu nội bảng trung bình tháng từ năm 2012 – 2017 (giai đoạn trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực). Kết quả đạt được là rất tích cực nhưng khó khăn, vướng mắc vẫn còn, đặc biệt dịch COVID-19 bùng phát lần 4 tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu cao trở lại.

Báo Tiền Phong và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức tọa đàm với chủ đề: “Nợ xấu trong đại dịch COVID-19 – Giải pháp hỗ trợ ngành ngân hàng và cộng đồng doanh nghiệp”.

Tọa đàm sẽ bàn về thực trạng ngân hàng thực hiện khoanh nợ, giãn nợ trong thời gian qua, làm sao để đạt được kết qua xử lý nợ xấu như mục tiêu đề ra. Với Nghị quyết 42, trong bối cảnh mới, cơ quan chức năng nên có giải pháp gì để tiếp tục duy trì mục tiêu trong Nghị quyết 42?

Khách mời toạ đàm gồm:

– Đại diện Ngân hàng Nhà nước

– Ông Nguyễn Quốc Hùng – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

– Ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc Công ty Quản lý tài sản (VAMC)

– Bà Nguyễn Thu Lan – Giám đốc cao cấp quản trị rủi ro, Ngân hàng TMCP Techcombank

– Ông Nguyễn Huy Tài – Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP SHB

– TS. Cấn Văn Lực – Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP BIDV

– Luật sư Trương Thanh Đức – Giám đốc Công ty Luật ANVI

– Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội

– Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp vận tải TP. Hà Nội

Buổi toạ đàm giàu thông tin và trách nhiệm

Kết thúc buổi tọa đàm, nhà báo Lê Xuân Sơn cho rằng, Nghị quyết 42 có tác dụng rất lớn trong giải quyết nợ xấu, tạo hành lang pháp lý cho các ngân hàng, thay đổi nhận thức của các bộ, ngành cơ quan quản lý thi hành pháp luật và cả các đối tượng thi hành các khoản nợ.

Theo nhà báo Lê Xuân Sơn, Tổng Biên tập báo Tiền Phong, buổi toạ đàm thành công tốt đẹp với những chia sẻ giàu thông tin, rất có trách nhiệm, góp phần kiến nghị các giải pháp để giải quyết vấn đề nợ xấu.

“Trong thời gian qua, chúng ta đã giải quyết khá tốt nợ xấu ở các ngân hàng, xuống còn 2% (Ngân hàng SHB còn 1,8 %). Tuy nhiên Nghị quyết 42 cũng còn nhiều tồn tại cơ bản vẫn chưa được giải quyết, đó là sự thay đổi trong nhận thức của các địa phương không đồng bộ và vẫn còn thờ ơ trong việc phối hợp giải quyết nợ xấu… Chúng tôi sẽ thể hiện những kiến nghị này trong báo cáo sau buổi toạ đàm.

Theo phản ảnh của các ngân hàng, do các chính sách đặc biệt như Thông tư 01, Thông tư 03, thì vẫn chưa đối mặt với các khoản nợ xấu, nhưng do COVID-19 nên cuối năm nay nợ xấu có khả năng sẽ lên trên 3%, vì vậy cần thiết phải có những chính sách đặc biệt hơn nữa. Cần phải có những văn bản pháp lý tầm Chính phủ để giải quyết vấn đề tín dụng. Các doanh nghiệp cũng có kiến nghị cụ thể trong khoanh nợ, giãn nợ… Chúng tôi cũng sẽ báo cáo để Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu.

Các ngân hàng cũng có nhiều trăn trở, giải pháp, cùng doanh nghiệp, tư vấn cho họ giải quyết món nợ, tiết kiệm chi tiêu trong bộ máy… Tuy nhiên, các doanh nghiệp thực sự rơi vào tình trạng khó khăn và cần có các chính sách tổng thể hơn.

Buổi toạ đàm ngày hôm nay đã thành công tốt đẹp với những chia sẻ giàu thông tin, rất có trách nhiệm, góp phần kiến nghị các giải pháp để giải quyết vấn đề nợ xấu. Cám ơn các đơn vị, hiệp hội, ngân hàng, doanh nghiệp đã đến dự và lắng nghe hội thảo này”, nhà báo Lê Xuân Sơn nói.

2 giờ trước

“Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 01, Thông tư 03 yêu cầu tổ chức tín dụng tạo điều kiện cho doanh nghiệp, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Trong bối cảnh COVID-19, có thể nói rằng, không có thông tư nào tháo gỡ được tình hình hiện nay, tốt được như Thông tư 01, Thông tư 03. Các ngân hàng cũng giảm lãi vay, cắt giảm lợi nhuận, ‘gồng mình’ hỗ trợ doanh nghiệp” – Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá.

2 giờ trước

Diễn biến dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam phức tạp trở lại trong vài tháng gần đây, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân. Đây cũng là đối tượng khách hàng của ngân hàng, khi thu nhập của họ giảm, khả năng trả nợ ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.

2 giờ trước

Cần thiết luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, đánh giá, những ý kiến của đại biểu tại toạ đàm đã gợi mở phương hướng rất cụ thể cho công tác xử lý nợ xấu thời gian tới.

Hiện, các tổ chức tín dụng (TCTD) đang xử lý nợ xấu rất tốt, nhưng lại bị ảnh hưởng vì dịch COVID-19, chưa biết bao giờ dịch bệnh kết thúc. Diễn biến dịch bệnh COVID-19 tại Việt Nam phức tạp trở lại trong vài tháng gần đây, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân. Đây cũng là đối tượng khách hàng của ngân hàng, khi thu nhập của họ giảm, khả năng trả nợ ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.

Trước tình hình đó, Hiệp hội Ngân hàng đề xuất: 1) Nghị quyết 42 chỉ là thí điểm, thời hạn có hiệu lực ngắn (5 năm), không áp dụng để xử lý cho toàn bộ nợ xấu của TCTD. Mặt khác, nợ xấu luôn tồn tại song song với hoạt động cho vay của các TCTD. Trong dài hạn, việc luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu là rất cần thiết, khi đó lĩnh vực xử lý nợ xấu sẽ có văn bản luật riêng để điều chỉnh, các quy định xử lý nợ xấu sẽ có giá trị pháp lý cao hơn, giúp cho ngành Ngân hàng và các cơ quan Nhà nước liên quan phối hợp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn. 2) Trong trường hợp đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục kéo dài và ảnh hưởng lớn đến an toàn hệ thống, cần có chính sách cho phép ngân hàng được khoanh nợ các khoản vay thuộc đối tượng áp dụng tại Thông tư 01 và Thông tư 03 như là chính sách áp dụng tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn đối với những khoản nợ rủi ro do dịch bệnh gây nên hiện nay.

3) Việc triển khai Nghị quyết 42 còn rất nhiều vướng mắc, bất cập như đã nêu ở trên, cần thiết tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn các nội dung tại Nghị quyết 42 đảm bảo tính đầy đủ, kịp thời, đồng bộ và thống nhất trong áp dụng pháp luật để giải quyết kịp thời vướng mắc của các ngân hàng trong triển khai Nghị quyết 42 hiện nay.

“Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kiến nghị Chính phủ, Quốc hội kéo dài hiệu lực Nghị quyết 42. Muốn kéo dài thì phải đánh giá, tổng kết những mặt được, mặt chưa được, nếu không thì bổ sung vào các bộ luật dân sự ra sao, để TCTD có hành lang thông thoáng để xử lý.

Hiện nay, COVID-19 đã ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế nói chung và nguồn lực tài chính của các tổ chức cá nhân có nhu cầu mua nợ nói riêng nên việc bán các khoản nợ xấu của TCTD đã gặp nhiều khó khăn. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về mua bán nợ, đồng thời có các chính sách ưu đãi cho các đơn vị mua, xử lý nợ xấu để góp phần đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ”, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, nói.

“Cần phải tiếp tục kéo dài hiệu lực Nghị quyết 42. Tốt nhất là nâng lên thành luật và áp dụng cho đến khi nào Hệ thống Toà án thực sự giải quyết được một cách nhanh chóng yêu cầu đòi nợ của ngân hàng, không chỉ riêng thủ tục rút gọn. Quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn, hợp lý hơn, khả thi hơn” – Luật sư Trương Thanh Đức.

Đề xuất nâng Nghị quyết 42 thành luật

Theo Luật sư Trương Thanh Đức, các quy định pháp luật đã có tác dụng rất tốt trong việc xử lý nợ xấu, tuy nhiên, chính sách vẫn có những điểm “xấu” và vẫn cần phải hoàn thiện để bảo đảm việc xử lý nợ xấu nói chung của nền kinh tế và nợ xấu nói riêng của ngành Ngân hàng cần tốt hơn.

Luật sư Trương Thanh Đức

“Thứ nhất, về Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14, được ban hành chậm nhưng tốt, thể hiện qua kết quả xử lý nợ xấu. Nguyên nhân thứ 2 của việc xử lý được nhiều nợ xấu, đó là thời gian. Thứ hai, qua nhiều năm, thì không có lý gì không xử lý được nợ xấu, nhất là đối với nợ có tài sản bảo đảm. Thời gian chữa lành mọi vết thương và nợ xấu.

Tuy nhiên, điểm sai không hợp lý lại làm được là 1/5 điều kiện: Thoả thuận thu giữ tài sản thế chấp. Trên thực tế, điều này không thực thi. Điểm cần thiết lại không làm được: Thủ tục rút gọn (Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14 và Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP). Vấn đề then chốt, quan trọng nhất mà Nghị quyết 42 đã mang lại, đó là tác động đến nhận thức: Được cả hệ thống chính trị và nghiệp vụ ủng hộ: Chính quyền, công chứng, đấu giá, đăng ký nhà đất,… Nhận thức và sức ép đối với khách hàng và bên tài sản bảo đảm thế chấp trước vấn đề mấu chốt quan trọng nhất là: Thu giữ tài sản thế chấp. Thay vì chây ỳ, trì hoãn có lợi trước đây, thì trở thành bất lợi đối với khách hàng và người có tài sản thế chấp từ sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực.

Về Thông tư số 01/2020 và 03/2021/TT-NHNN, tôi cho rằng mục tiêu hỗ trợ là cần thiết; tác dụng trợ giúp tốt. Rất cần phải giãn, hoãn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; Tác dụng không chỉ cho phía doanh nghiệp, mà đồng thời cho cả ngân hàng, rộng ra là nền kinh tế xã hội; Cổ phiếu ngân hàng tăng giá mạnh, thị trường chứng khoán tăng vọt cũng nhờ ‘công’ rất lớn của hai Thông tư này. Vậy mặt phải là ‘công’ thì đã rõ, nhưng mặt trái thì có ‘tội’ hay không?

Có hai phần chính của “chính sách COVID” là cho phép (nhưng gần tương đương với bắt buộc, hay tính chất bắt buộc cao) các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ. Tiếp tục cho vay, thực chất là hạ chuẩn cho vay. Nếu hai Thông tư không cho phép thì ngân hàng không được làm. Bên cạnh đó là khuyến khích (không bắt buộc, hay tính chất bắt buộc thấp) các tổ chức tín dụng hỗ trợ khách hàng bằng các chính sách ưu đãi, trong đó có thoả thuận miễn, giảm lãi, phí, phạt,… Nếu hai Thông tư không cho phép thì ngân hàng vẫn được làm.

Tuy nhiên, lại có nguy cơ dẫn đến sai bản chất, thực chất bởi nợ xấu phải là nợ xấu và vẫn là nợ xấu, vì không có lý do gì để tốt lên, để thành nợ tốt. Về bản chất là việc xử lý tạm khoanh nợ, tạm thời được miễn trách, tạm thời không áp dụng “chế tài” xấu; để hỗ trợ cả hai phía doanh nghiệp và ngân hàng. Tuy nhiên, xử lý như hai Thông tư thì có nguy cơ gây nhầm lẫn, chủ quan, đánh giá không đúng bản chất, tính chất của nợ xấu, dẫn đến nguy cơ rất lớn cả về chất lượng tín dụng trong tương lai gần cũng như ý thức tuân thủ pháp luật. Từ đó, dễ đến nguy cơ xoá mất thành quả, công sức nhiều năm yêu cầu thực hiện phân loại nợ đúng; thực hiện đúng về tích lập và sử dụng dự phòng, đánh giá đúng chất lượng tín dụng, xác định đúng tình trạng rủi ro”, Luật sư Trương Thanh Đức nhấn mạnh, đồng thời đưa ra một số đề xuất, kiến nghị:

“Về Nghị quyết 42 cần sửa đổi, triển khai, hiện thực hoá thủ tục rút gọn theo Nghị quyết 42 và 03 cho các khoản nợ xấu cho vay từ 15/8/2017 các khoản nợ xấu phát sinh sau ngày 15/8/2022. Cần phải tiếp tục kéo dài hiệu lực Nghị quyết 42. Tốt nhất là nâng lên thành luật và áp dụng cho đến khi nào Hệ thống Toà án thực sự giải quyết được một cách nhanh chóng yêu cầu đòi nợ của ngân hàng, không chỉ riêng thủ tục rút gọn. Quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn, hợp lý hơn, khả thi hơn. Giờ không làm ngay thì lại không kịp.

Về Thông tư 42, giữ nguyên nhóm nợ, giữ nguyên nợ xấu để đánh giá đúng chất lượng tín dụng, nhất là chưa xác đinh được khi nào hết dịch. Và dù có hết dịch thì cũng còn tiếp tục khó khăn rất lâu nữa. Đồng thời cho phép áp dụng các cơ chế tương tự như hiện nay.

Đối với VAMC, cần xem xét giảm thiểu, tiến tới bỏ cơ chế mua bán nợ ‘kỹ thuật’, thay bằng cơ chế ‘khoanh nợ’.

Về các chính sách khác, khôi phục cơ chế pháp lý ‘khoanh nợ’, trước đây đã từng được thực hiện trong ngành Ngân hàng, hiện nay vẫn đang áp dụng đối với việc xử lý nợ quốc gia và một số lĩnh vực như cho vay của các Quỹ Đầu tư phát triển địa phương. Đặt ra cơ chế cho phép xoá nợ gốc nói chung, trong trường hợp xử lý nợ xấu nói riêng”.

“Chúng tôi đề nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ khách hàng thông qua các chính sách, có thể thời gian hỗ trợ sẽ kéo dài hơn nữa” – Ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ khách hàng thông qua các chính sách

Ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam – VAMC, nhận định, diễn biến đại dịch COVID-19 còn diễn biến, thậm chí phức tạp hơn. Nợ xấu hiện nay vẫn chưa phản ánh ảnh hưởng của COVID-19 nhờ các chính sách giảm nợ, giãn nợ.

“Chúng tôi đề nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ khách hàng thông qua các chính sách, có thể thời gian hỗ trợ sẽ kéo dài hơn nữa.

Về phía tổ chức tín dụng, chúng tôi đề nghị tùy nguồn lực mà hỗ trợ khách hàng phù hợp. Gọi là hỗ trợ khách hàng, nhưng thực sự là tiềm năng để tổ chức tín dụng tiếp tục làm việc với khách hàng đó.

Chúng tôi cũng bị ảnh hưởng bởi COVID-19, thực tế xử lý nợ xấu, tốc độ thu nợ chậm, thậm chí bán đấu giá thành công rồi, lẽ ra người mua bình thường có thể trả ngay, nhưng hiện nay cũng xin giãn.

Trong thực tế, chúng tôi cũng đang thực hiện cơ cấu đối với các khách hàng chúng tôi mua nợ từ thị trường. Đối với khách hàng có khả năng phục hồi, chúng tôi đã áp dụng cơ cấu như giảm nợ, giãn nợ”, ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam – VAMC, nhấn mạnh.

Lãi suất cho vay hợp lý

Bà Trịnh Thị Ngân – Trưởng ban Cố vấn Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa TP.Hà Nội, cho rằng, giai đoạn vừa qua, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa thực sự khó khăn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 98%, đây là khối lượng doanh nghiệp lớn, bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 cực kỳ nặng nề.

Bà Trịnh Thị Ngân – Trưởng ban Cố vấn Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa TP.Hà Nội

“Hỗ trợ của Nhà nước rất nhiều, chúng tôi đánh giá cao Nghị quyết 42, giúp chúng tôi tái cơ cấu tài chính. Bản thân chúng tôi tự đánh giá được sức khỏe của mình, doanh nghiệp nào không tồn tại được phải giải thể. Giai đoạn vừa qua, lãi suất chưa bao giờ thấp như bây giờ, nhưng cơ hội để vay và phục hồi sản xuất rất khó. Tài sản thế chấp là vấn đề lớn, chỉ dùng để đi vay được khoản ban đầu, nhưng đọng vốn rồi đi vay rất khó. Doanh nghiệp phải có sức mới có thể chống chọi được trong tình hình hiện nay.

Chúng tôi mong ngân hàng cho nợ dài hạn hơn để có điều kiện phục hồi. Trong những tháng ảnh hưởng COVID-19, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp.

Cảm ơn ngành ngân hàng trong những năm qua luôn đồng hành, từ chính sách ưu đãi đến chăm sóc khách hàng. Bài toán muôn thuở là tài sản thế chấp, rất mong ngành ngân hàng có những quyết sách tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội các chính sách như giảm lãi vay”, bà Trịnh Thị Ngân kiến nghị.

 

Phân loại đúng khách hàng để có giải pháp phù hợp

Đại diện Ngân hàng Techcombank cho biết: Dịch COVID-19 chưa kết thúc, và chưa thể đánh giá rõ ràng được những hậu quả chính xác mà dịch bệnh tác động đến ngân hàng.

Kinh nghiệm và cũng là bí quyết xử lý của chúng tôi trong thời gian dịch bệnh vừa qua là: Am hiểu khách hàng, phân loại đúng khách hàng và có giải pháp phù hợp. Với khách hàng khó khăn tạm thời do dịch bệnh thì chúng tôi hỗ trợ khách hàng vượt qua khó khăn. Với khách hàng khó khăn lâu dài, bị ảnh hưởng nặng nề thì ngân hàng đồng hành cùng khách hàng tìm các giải pháp giảm thiểu thiệt hại, xử lý sớm để hạn chế chi phí và lãi phát sinh.

Techcombank đưa ra những chính sách mới, ưu đãi mới dành cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vay vốn đến 5 tỷ.

Một điểm đáng chú ý, là ngân hàng hiện đang chịu thêm các sức ép khác, đó là một số khách hàng tận dụng sự phát triển của mạng xã hội để gây sức ép cho ngân hàng, đưa thông tin một chiều, sai sự thật khiến dư luận nhìn nhận không khách quan, thiếu sự đồng cảm chia sẻ với những khó khăn của công tác xử lý thu hồi nợ xấu. Một số thông tin sai lệch này ảnh hưởng không tốt đến uy tín, gây tổn thương cho hình ảnh thương hiệu. Điều này, khiến công tác thu hồi nợ xấu đã khó càng khó hơn.

“Ngân hàng là tổ chức lớn và hoạt động chịu sự quản lý rất chặt chẽ bởi pháp luật. Chúng tôi luôn đề cao tinh thần tuân thủ pháp luật, ủng hộ chính sách của Nhà nước. Trong quá trình xử lý nợ, chúng tôi cam kết tuân thủ pháp luật và sẵn sàng chia sẻ thông tin tới các cơ quan quản lý và truyền thông để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Vì dịch bệnh vẫn tiếp tục, tôi mong muốn Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đưa ra những chính sách phù hợp với các ngân hàng thương mại, đem lại lợi ích thiết thực cho khách hàng”, đại diện Ngân hàng Techcombank kiến nghị.

Với tình hình hiện tại, du lịch không có khách, doanh nhân có khả năng thành con nợ, ông chủ thành con nợ. Hầu như doanh nghiệp bên bờ phá sản.

Nhiều doanh nghiệp du lịch bên bờ vực phá sản

Hoàng Văn Vinh – Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Nha Trang – Khánh Hòa chia sẻ, trước dịch COVID-19, có hơn 17 triệu lượt khách đến Nha Trang, nhưng khi dịch đến không có bóng dáng du khách nước ngoài nào. Do ảnh hưởng dịch, 95% khách sạn đóng cửa, chưa đầy 5% hoạt động, nhưng là đăng ký làm cơ sở cách ly. Các doanh nghiệp du lịch đang bên bờ vực phá sản.

“Chúng tôi mong muốn ngân hàng hỗ trợ cho doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp tiếp cận khoản vay không có lãi. Đề xuất Ngân hàng Nhà nước cho các doanh nghiệp thực hiện Thông tư 01/2020/TT-NHNN là khoanh nợ và giảm nợ, giảm lãi suất. Với tình hình hiện tại, du lịch không có khách, doanh nhân có khả năng thành con nợ, ông chủ thành con nợ. Hầu như doanh nghiệp bên bờ phá sản. Cảm ơn báo Tiền Phong tạo điều kiện cho doanh nghiệp Khánh Hòa nói lên tiếng nói của mình!”, ông Vinh nói.

 

Các đại biểu trao đổi tại buổi tọa đàm

Đồng hành, lắng nghe và thấu hiểu khách hàng

Ông Nguyễn Huy Tài, đại diện ngân hàng SHB cho biết, trong bối cảnh dịch COVID-19 với nhiều khó khăn, ngân hàng nói chung và SHB luôn đồng hành, chia sẻ cùng với các doanh nghiệp. Khó khăn của doanh nghiệp cũng là khó khăn của SHB. Với SHB, trong thời gian qua SHB luôn dành nguồn lực để đánh giá lại các khoản nợ trong và sau dịch bệnh. Trên cơ sở đó, ngân hàng có những biện pháp chủ động triển khai sau khi dịch kết thúc.

Đối với nợ xấu, không chỉ đến từ việc thu hồi nợ, mà các dòng tiền khác của khách hàng đều bị ảnh hưởng, làm giảm hoạt động của ngành ngân hàng. Khi dịch bệnh xay ra, việc xử lý nợ xấu và tương tác với khách hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng nhiều đơn vị từ chối gặp gỡ trong bối cảnh dịch, hoặc phương thức trao đổi qua qua email, điện thoại cũng không hiệu quả.

Ông Nguyễn Huy Tài, đại diện ngân hàng SHB

“SHB luôn đồng hành, lắng nghe và thấu hiểu khách hàng. Thậm chí, chúng tôi còn tư vấn cho khách hàng có nên mở rộng, duy trì các hoạt động kinh doanh trong bối cảnh này hay không, hay đóng cửa chờ dịch trôi qua, để tránh tiêu hao nguồn lực. Trong điều kiện dịch bệnh, các cơ quan, bộ ngành hầu hết đều tập trung cho công tác phòng chống dịch. Do vậy, việc hỗ trợ cho các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã rà soát, đánh giá và trao đổi với khách hàng về các khoản nợ, hỗ trợ những quyết định của khách hàng làm sao tiết giảm nguồn lực, có điều kiện khôi phục hoạt động trong điều kiện mới”, ông Tài nói.

Kiến nghị Chính phủ tìm giải pháp hiệu quả hơn nữa để hỗ trợ doanh nghiệp

Trao đổi tại buổi tọa đàm, ông Bùi Danh Liên – Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội, cảm ơn ngành Ngân hàng, các tổ chức tính dụng đã vào cuộc triển khai Nghị quyết 42 một cách cụ thể, giải quyết bức xúc, giảm nợ, lùi thời điểm thu nợ, giảm thuế, phí, rất chính đáng, được quần chúng, doanh nghiệp ủng hộ.

Tuy nhiên, theo ông Liên, kết quả vẫn còn hạn chế, bởi trong khó khăn, doanh nghiệp vận tải phải giữ được doanh nghiệp, phải giữ được người lao động mới có thể cùng nền kinh tế phát triển.

Ông Bùi Danh Liên – Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội

“Dịch bệnh như Trời định, không biết bao giờ mới kết thúc. Nếu như COVID-19 biến thể sang một dạng khác, các cơ quan ban ngành có thể kéo dài hỗ trợ doanh nghiệp phát triển dài hạn hơn. Chúng tôi muốn kiến nghị Chính phủ tìm giải pháp hiệu quả hơn nữa để hỗ trợ doanh nghiệp. Nợ xấu là một phần, khoanh nợ cũng cần được chú trọng. Nếu không sản xuất, nợ vẫn còn đó, thành nợ xấu, không thể vay mới. Cần giải quyết khoanh nợ để doanh nghiệp tồn tại và phát triển”, Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội kiến nghị.

Trong bối cảnh giãn cách, hạn chế di chuyển do dịch, với vận tải hành khách, lượng xe khách đến nay hoạt động chỉ khoảng 20-30%, trên mỗi một chuyến xe chỉ được chở lượng khách không quá 50% số ghế ngồi. Đặc biệt là khi đợt dịch bệnh thứ tư bùng phát vào cuối tháng 4/2021, lượng hành khách đi xe lại càng giảm nhiều hơn.

“Sóng COVID-19” dồn dập, ngành vận tải gặp khó

Nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trước những khó khăn do dịch COVID-19, trong đó có doanh nghiệp vận tải, từ tháng 3/2020, Chính phủ đã có những gói giải pháp hỗ trợ đồng bộ, gần đây nhất là Nghị định 52 với tổng gói hỗ trợ trị giá 115.000 tỷ đồng.

Tuy nhiên, trước những tác động ngày càng lớn do làn sóng COVID-19 thứ 4 gây ra hiện nay, với đại đa số doanh nghiệp vận tải, những giải pháp hỗ trợ đó là chưa đủ.

Nhiều doanh nghiệp trong ngành kiến nghị những giải pháp hỗ trợ khẩn cấp, thiết thực hơn, chủ yếu là: giảm phí, thuế, giảm lãi suất cho vay, giảm thuế giá trị gia tăng về 0%…

 

Đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp tham dự buổi tọa đàm

Xử lý nợ xấu phát sinh do đại dịch COVID-19

Dịch COVID-19 bùng phát lần 4 tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu cao trở lại. Nhiều doanh nghiệp gián đoạn chuỗi sản xuất, đứt gãy dòng tiền, không có nguồn thu để trả nợ.

Sau khi lắng nghe ý kiến từ đại điện Techcombank, SHB, chuyên gia Cấn Văn Lực, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá, Nghị quyết số 42 đã tạo cơ chế xử lý đồng bộ, hiệu quả giúp các tổ chức tín dụng đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, kết quả đạt được là rất tích cực. Quan trọng nhất, Nghị quyết 42 đã cho thấy trách nhiệm của khách hàng trả nợ (44% số nợ thu hồi). Với những điều kiện đó, việc tổ chức thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng sẽ hoàn thiện hơn.

Không để “con sâu làm rầu nồi canh”

Theo chuyên gia Cấn Văn Lực, Nghị quyết 42, là hành lang pháp lý hỗ trợ rất lớn cho công tác xử lý nợ, giúp các ngân hàng giải quyết cục máu đông tồn đọng từ thời kỳ khủng hoảng tài chính 2011-2013.

Chuyên gia Cấn Văn Lực

Việc có thể xử lý được tài sản để thu hồi nợ theo Nghị quyết 42 không chỉ giúp ngân hàng thu hồi nợ xấu, mà còn có tác động rất tích cực tới các khách hàng vay vốn của ngân hàng.

Tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng cao nhất đến 1-3%. Như vậy 97- 99% các khách hàng vay vốn là khách hàng tốt. Việc có thể sớm xủ lý các khoản nợ xấu giúp chính sách cho vay, giá cả cho vay và thủ tục vay vốn đối với khách hàng được thiết kế phù hợ hơn rất nhiều. Kiểu như không để “con sâu làm rầu nồi canh”.

Sau 3 năm triển khai Nghị quyết 42, có một báo cáo đánh giá tổng kết rất đầy đủ. Theo đó, có 11 vướng mắc như các ngân hàng đã chỉ ra trước đó, tập trung 4 nguyên nhân:

Một là, sự vào cuộc, phối kết hợp của các cơ quan chức năng, địa phương còn chưa kịp thời, chưa đồng bộ và nhất quán, dẫn đến quá trình thực thi Nghị quyết gặp không ít khó khăn. Thí dụ, sau gần một năm Nghị quyết 42 (NQ42) có hiệu lực, đến ngày 15/5/2018 Tòa án Nhân dân tối cao mới ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ ngày 1/7/2018) hướng dẫn áp dụng các quy định của NQ 42; trong khi đó, quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn chưa phù hợp với tính chất đặc thù của giao dịch cho vay, nhận thế chấp tài sản của Tổ chức Tín dụng (TCTD). Chỉ cần bên vay không thống nhất với TCTD về dư nợ hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt hay từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo đảm… thì Tòa án sẽ không áp dụng thủ tục rút gọn. Kết quả đến nay số lượng hồ sơ được áp dụng theo thủ tục rút gọn rất hạn chế. Tại mỗi vụ thu giữ tài sản đảm bảo (TSĐB), công an và chính quyền địa phương vào cuộc không quyết liệt, dẫn đến hiện tượng chây ỳ, thậm chí hăm dọa cán bộ tín dụng đã xảy ra. Tại một số địa phương do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, hoạt động thi hành án ngân hàng còn chưa thật sự hiệu quả, nhiều vụ việc kéo dài… phát sinh nhiều chi phí cho đơn vị xử lý nợ.

Hai là, còn nhiều vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo. Đó là, Quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD là một trong những nội dung trọng tâm tại NQ 42 nhưng việc triển khai trên thực tế còn nhiều vướng mắc do NQ 42 không quy định chế tài xử lý hoặc cơ chế, cách thức tiến hành cưỡng chế trong trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không hợp tác; Việc mua, bán, sang tên TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai có nhiều vướng mắc.

Theo đó, người mua nợ không thực hiện được thủ tục đăng ký thay đổi bên nhận thế chấp tại cơ quan chức năng theo quy định tại NQ 42 do không phải là TCTD (như cách hiểu cứng nhắc Luật Đất đai 2013 của cơ quan chức năng. Tương tự, trong quá trình xử lý nợ xấu, hầu hết các chủ tài sản đều chống đối, không hợp tác. Do đó, TCTD hay tổ chức mua bán nợ đề xuất sử dụng Biên bản thu giữ thay cho văn bản về việc bàn giao tài sản thế chấp hay khoản nợ nhưng không được Văn phòng đăng ký đất đai chấp thuận. Từ đó dẫn đến các bên liên quan không thực hiện được việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho bên mua tài sản. về việc thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) và việc nộp thuế khi chuyển nhượng TSBĐ (Điều 12, Nghị quyết số 42). Việc chuyển nhượng các dự án chưa có Giấy chứng nhận vẫn gặp phải khó khăn khi tiến hành các thủ tục chuyển nhượng dự án tại các cơ quan có thẩm quyền.

Vướng mắc về thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ và việc nộp thuế chuyển nhượng TSBĐ. Theo yêu cầu, các TCTD phải nộp các khoản thuế trước khi được ưu tiên thanh toán đã làm giảm số tiền thu hồi nợ của TCTD, nhiều trường hợp số tiền bán TSBĐ không đủ thu hồi nợ cho TCTD nhưng vẫn phải nộp thuế, gây khó khăn cho cả bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi chủ nợ có bảo đảm của TCTD…v.v.

Thiếu thông tin về hiện trạng TSĐB do Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự không có hệ thống dữ liệu cho phép các TCTD trích xuất, tra cứu thông tin về hiện trạng tài sản có liên quan đến vụ việc đang được thụ lý giải quyết, nên không biết tài sản có tranh chấp/vướng mắc gì hay không, trong khi chưa có hướng dẫn áp dụng cụ thể, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý TSĐB theo Nghị quyết số 42.

Khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự.

Ba là, khâu định giá, thẩm định giá khoản nợ và TSĐB khó khăn. Còn thiếu hướng dẫn về cơ sở xác định giá trị khoản nợ và TSĐB trong khi khoản nợ xấu và TSĐB đi kèm có khác biệt so với nợ thông thường. Việc giới hạn tổ chức thẩm định giá phải nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố đã làm hạn chế cơ hội lựa chọn được tổ chức định giá có đủ uy tín, năng lực để thực hiện định giá tài sản. Nhiều địa phương còn thiếu tổ chức thẩm định giá hoặc năng lực của tổ chức thẩm định giá còn yếu, dẫn đến chất lượng thẩm định giá chưa cao; thậm chí có khả năng xảy ra tình trạng thiếu minh bạch, câu kết giữa các bên liên quan.

Bốn là, Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức thực sự, các nghiệp vụ phái sinh cho khoản nợ xấu (nhưng chứng khoán hóa) chưa có, dẫn đến thiếu nhà đầu tư có năng lực, thiếu tính thanh khoản của các khoản nợ; làm giảm tính hấp dẫn, giá trị và nguồn lực để xử lý các khoản nợ này; khiến quá trình mua – bán nợ theo giá thị trường càng khó khăn.

Những vướng mắc nêu trên chỉ những vấn đề nổi cộm nhất trong quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD nói chung và triển khai NQ 42 nói riêng. Theo đó, để quá trình xử lý nợ xấu và thực hiện Nghị quyết 42 mang lại hiệu quả cao hơn, nhất là trong giai đoạn 2021-2025; chúng tôi có một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, Quốc Hội, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan, địa phương khẩn trương tháo gỡ, xử lý dứt điểm những vướng mắc chính nêu trên theo chức năng – nhiệm vụ, nhất là khâu hướng dẫn triển khai đồng bộ, nhất quán và phối kết hợp tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả trên tinh thần vì cái chung.

Thứ hai, Chính phủ chỉ đạo đẩy nhanh, thực chất tiến trình cơ cấu lại DNNN, nâng cao năng lực tài chính – quản trị, tạo điều kiện để hệ thống các TCTD xử lý nợ xấu. Các bộ chủ quản chỉ đạo các Tập đoàn, Tổng công ty thực hiện nghĩa vụ trả nợ hay nghĩa vụ bảo lãnh đối với các khoản vay tại các TCTD mà các đơn vị đứng ra bảo lãnh cho các công ty con, công ty thành viên của mình.

Thứ ba, trên cơ sở thực tế áp dụng chính sách tại Nghị quyết 42 và tổng kết, đánh giá việc thực hiện Quyết định số 1058/QĐ-TTg đến hết năm 2020, Chính phủ chỉ đạo sớm hoàn thiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2021-2025 nhằm tiếp tục hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý hiệu quả nợ xấu, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu về cơ cấu lại hệ thống các TCTD và chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 như đã nêu tại Quyết định 986/QĐ-TTg. Theo đó, các TCTD tiếp tục rà soát chính sách, quy trình về tín dụng, tăng cường kiểm soát rủi ro (nhất là trong bối cảnh tác động tiêu cực bởi đại dịch COVID-19) nhằm hạn chế nợ xấu gia tăng trong tương lai.

Cuối cùng, Chính phủ nên xem xét đề xuất Quốc Hội luật hóa NQ 42 trên cơ sở rà soát, hoàn thiện và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan. Thực tế chứng minh NQ 42 đã mang lại rất nhiều kết quả tích cực cho công tác xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, đối tượng tập trung vào các khoản nợ được hình thành trước khi NQ có hiệu lực (ngày 15/8/2017). Trong khi đó, nợ xấu là vấn đề liên tục, luôn hiện hữu của ngành ngân hàng. Hơn nữa, trước ảnh hưởng của dịch COVID-19, nợ xấu đã và đang tăng cao. Trong khi đó, NQ 42 sẽ hết hiệu lực chỉ trong hơn 1 năm nữa, sẽ khiến áp lực xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD trong thời gian tới là rất lớn. Việc luật hóa xử lý nợ xấu cũng là tăng hiệu lực, hiệu quả của công tác thể chế, một trong ba đột phá chiến lược tiếp tục được Đại hội Đảng XIII lựa chọn, thông qua.

Nghị quyết 42 có tác động lớn, sâu sắc đến các ngân hàng và tổ chức, trong đó có VAMC. Ngày sau khi có Nghị quyết 42, Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ tối đa cho hoạt động xử lý, thu hồi nợ của VAMC. Cho đến thời điểm hiện nay, có 21 tổ chức tín dụng đã tất toán dư nợ cho VAMC.

Nâng tầm Nghị quyết 42 sau khi kết thúc thí điểm

Ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam – VAMC, trao đổi tại buổi tọa đàm.

Trao đổi tại buổi tọa đàm, ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam – VAMC, cho biết, VAMC là doanh nghiệp, thực tế là công cụ của Nhà nước nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý nền kinh tế.

VAMC được thành lập bởi quyết định được thành lập và hoạt động theo Nghị định 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. VAMC hoạt động qua hai giai đoạn: 2013-2017, hoạt động trên nền tảng Nghị định 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ; 2017 – 2021, hoạt động trên nền tảng Nghị quyết 42/2017/QH14. Nghị quyết 42 có tác động lớn, sâu sắc đến các ngân hàng và tổ chức, trong đó có VAMC. Ngay sau khi có Nghị quyết 42, Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ tối đa cho hoạt động xử lý, thu hồi nợ của VAMC. Cho đến thời điểm hiện nay, có 21 tổ chức tín dụng đã tất toán dư nợ cho VAMC.

Ông Thắng cho biết, Nghị quyết 42 ra đời, cùng với việc quy định về đấu giá tài sản, từ 2018 đến nay, VAMC đã bán đấu giá thành công gần 3.000 tỷ các khoản nợ và tài sản bảo đảm. “Hiện tại, chúng tôi được Ngân hàng Nhà nước đồng ý xây dựng sàn giao dịch nợ xấu, khoảng đầu quý III/2021 sẽ ra đời. Ngoài ra, được phép Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng, thành lập câu lạc bộ VAMC với 23 thành viên, tạo diễn đàn để các AMC lên tiếng, hướng tới các đơn vị tham gia thị trường mua bán nợ.

Về khó khăn, đầu tiên, Nghị quyết 42 thực tế là Nghị quyết thí điểm trong 4 năm, đến nay đã gần kết thúc thí điệp, nên tiếp tục duy trì và xây dựng luật xử lý nợ xấu. Nghị quyết 42 cho phép những trường hợp quy định của Nghị quyết cao hơn luật, nhưng thực tế áp dụng còn mỗi bên hiểu một hướng, nên đa phần vẫn luật cao hơn Nghị quyết.

Nghị quyết 42 có thể động viên khách hàng tự nguyện giao tài sản, có những trường hợp thu giữ được trao điều kiện rất cao, nhưng có trường hợp chỉ giới hạn trong điều kiện ảnh hưởng an ninh quốc gia. Tổ chức tín dụng chưa áp dụng thủ tục tranh chấp, không thể thực hiện được. Ngoài ra, còn có những khó khăn về các vấn đề liên quan đến thuế.

—————-

Tiền phong (Kinh tế) 23-6-2021:

https://tienphong.vn/xu-ly-no-xau-trong-dai-dich-covid-19-post1348502.tpo

(1.071/7187)

Bài viết 

311. Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế...

Hãy nhìn từ mục tiêu của việc đánh thuế bất động sản. [caption id="attachment_42152"...

Bình luận 

433. Bình luận về Chủ sở hữu hưởng lợi của...

Bình luận về Chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp Tham luận Hội...

Phỏng vấn 

4.392. Bẫy nạn nhân với 'miếng mồi' lãi suất cao.

Bẫy nạn nhân với 'miếng mồi' lãi suất cao. (TT) - Vụ GFDI ở Đà Nẵng...

Trích dẫn 

3.910. Giải pháp nào để người dân "bình tĩnh"...

Giải pháp nào để người dân "bình tĩnh" với vàng? (CAND) - Dù liên...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 232,042