201. Bình luận chuyên đề “Nghiệp vụ tư vấn các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp”.

(ANVI) – Tọa đàm cho ý kiến vào dự thảo nội dung cuốn “Cẩm nang kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp”.

  1. Nhận xét chung:
  • Chuyên đề đã nêu lên tương đối đầy đủ những đòi hỏi và công việc thực tế của bộ phận pháp chế, gắn với những vấn đề, nội dung cụ thể liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
  • Tuy nhiên, do thiết kế của “Đề cương chi tiết cuốn cẩm nang về kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp”, nên không tránh khỏi nhiều nội dung trùng lặp với các phần khác. Nếu như coi đây là một tài liệu nhằm chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm thì phù hợp hơn là một phần nội dung trong cuốn Cẩm nang kỹ thuật nghiệp vụ.
  1. Về Các vấn đề pháp lý thường xảy ra trong doanh nghiệp (Mục 3.1):
  • Các vấn đề về tư vấn và xây dựng hệ thống văn bản định chế nội bộ đang được đưa vào phần “Nội dung và phương thức tư vấn các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp”, là không hợp lý, do theo bản Đề cương thì không có phần riêng cho nội dung này. Xây dựng hệ thống văn bản định chế là một hoạt động đặc biệt quan trọng, khác hẳn với hoạt động tư vấn, vì vậy cần tách riêng thành một nghiệp vụ cơ bản, riêng biệt khỏi hoạt động tư vấn của pháp chế doanh nghiệp (như đã được thể hiện trong phần khác của bản Đề cương).
  • Tình trạng hình thức ban hành, thẩm quyền ban hành, thể thức soạn thảo, căn cứ ban hành,… quy chế, quy định nội bộ doanh nghiệp không thống nhất, không hợp lý, thì chính là trách nhiệm của bộ phận pháp chế. Không thể yêu cầu các bộ phận nghiệp vụ phải nắm vững và thành thạo việc này, vì cơ chế quản lý của công ty phức tạp hơn nhiều các bộ, ngành, chỉ có một cấp đứng đầu là bộ trưởng ban hành văn bản của bộ. Trong khi một công ty thông thường có ít nhất 4 cấp ban hành văn bản là Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Tổng giám đốc, chưa kể một số công ty còn tách riêng các văn bản của Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên. Vì vậy, đối với các các công ty có nhu cầu ban hành nhiều văn bản quản lý nội bộ, thì bộ phận pháp chế cần phải xây dựng các quy chế, quy định cụ thể về việc này để bảo đảm sự thống nhất và hợp lý, không thể thực hiện theo quy định và cách thức của các cơ quan nhà nước.
  1. Nghiệp vụ tư vấn các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (Mục 3.2):
  • Đối với doanh nghiệp, không nên theo quan điểm “soạn thảo, ban hành các quy định nội bộ cần hết sức tránh việc nhắc lại các văn bản pháp quy mà nhà nước đã ban hành.” Nguyên tắc này đã được đặt ra đối với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên cũng bị và nhiều khi buộc phải vi phạm một cách rất phổ biến. Đối với doanh nghiệp thì thậm chí nhiều khi pháp luật còn bắt buộc phải nhắc lại quy định của pháp luật như khi quy định về Điều lệ, Nội quy lao động, Thỏa ước tập thể,.. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp rất cần phải tập hợp đầy đủ quy định trong hàng chục, thậm chí hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật khác nhau vào trong một văn bản nội bộ để bảo đảm tính hệ thống, sự đầy đủ, lô gic, cập nhật và sự thuận tiện cao nhất cho người thực hiện (nhưng cần trình bày theo cách phân biệt giữa hai loại quy định nội bộ và quy định pháp luật). Nếu cứ soạn thảo và ban hành văn bản như Nhà nước, thì sẽ dẫn đến tình trạng cán bộ, nhân viên sẽ bất lực trước trùng điệp quy định, không thể biết và không thể làm đúng được. Bộ phận pháp chế phải có vai trò quyết định trong việc khắc phục tình trạng này, trong đó có việc phải chấp nhận kéo dài quy định nội bộ.
  • Sẽ là không phù hợp với thực tế, nếu cho rằng “Các quy chế, quy định quản lý nội bộ đều phải được soạn thảo và ban hành theo đúng quy trình, thẩm quyền được quy định trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp và theo quy định của pháp luật.”. Vì Điều lệ thường chỉ quy định rất chung, không thể có “quy trình” để ban hành. Còn quy định của pháp luật thì thì bám sát về nội dung để không trái ngược một cách nguy hiểm, chứ không thể căn cứ để “ban hành theo đúng quy trình, thẩm quyền”.
  1. Về Nghiệp vụ tư vấn giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo trong doanh nghiệp (Mục 3.3):
  • Chuyên để mới chỉ đề cập đến việc giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chế độ, chính sách việc làm, tiền lương, chưa đề cập đến các loại khiếu nại, tố cáo khác.
  • Do đó nghiệp vụ này nên đề cập đến các vấn đề sau:
  • Việc khiếu nại, tố cáo của khách hàng (giải quyết theo pháp luật liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,…);
  • Việc khiếu nại, tố cáo của cổ đông hoặc các thành viên công ty (theo các luật liên quan);
  • Việc khiếu nại, tố cáo của các đối tượng khác (không bắt buộc phải thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo như nhiều cơ quan nhà nước vẫn nhầm lẫn bắt doanh nghiệp dân doanh phải thực hiện).
  • Ngoài ra, cần xem lại nhận định: “Nội dung các đơn tố cáo, phản ánh và kiến nghị (phần lớn là nặc danh)”. Điều này có thể chỉ đúng với một số doanh nghiệp này, chứ không đúng với nhiều doanh nghiệp khác.
  1. Về Nghiệp vụ tư vấn pháp lý trong công tác quản lý thương hiệu của doanh nghiệp (Mục 3.4):
  • Đây là một vấn đề được tách thành mục riêng để nhấn mạnh. Tuy nhiên, cần mở rộng hơn phạm vi quản lý sở hữu tri tuệ, hình ảnh, thương hiệu, bộ nhận diện thương hiệu, nhãn hiệu,… Trong đó cần bổ sung thêm vào mục này nghiệp vụ tư vấn giải quyết khiếu nại của khách hàng nói riêng, của công chúng và các đối tượng khác nói chung, liên quan đến hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
  • Việc tư vấn pháp luật trong Mục này nói riêng, cũng như trong cả Chuyên đề nói chung còn chưa thật rõ, chưa được làm nổi bật, vì nội dung đề cập hơi nhiều và chi tiết đến các yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ kinh doanh.
  1. Một số vấn đề khác:
  • Cẩm nang và Chuyên đề này nên có phần gợi ý về việc, trường hợp nào thì cần có bộ phận pháp chế, khi nào thì thuê ngoài và khi nào thì chưa cần. Trên thực tế, phần lớn doanh nghiệp và rõ ràng không phải tất cả các doanh nghiệp đều cần đến một bộ phận pháp chế hay thuê ngoài tư vấn pháp lý thường xuyên, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
  • Chức năng tuân thủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong doanh nghiệp và được các doanh nghiệp nước ngoài rất quan tâm. Đó là việc bảo đảm sự tuân thủ các quy định từ bên ngoài của pháp luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Tuy tuân thủ khác với chức năng pháp chế, nhưng ở Việt Nam hầu như chưa có sự phân biệt rõ và trên thực tế cũng chính là những vấn đề mà bộ phận pháp chế đang đảm nhiệm.
  • Cần đề cập đến một công việc rất cần thiết của bộ phận pháp chế, đó là tổng hợp, hệ thống hóa các văn bản và các vấn đề pháp lý theo từng chuyên đề riêng, như ủy quyền, thời hạn, văn bản bắt buộc phải có trong doanh nghiệp,… để bảo đảm thuận tiện cho việc tiếp cận và thực hiện các quy định của pháp luật, trước hết là cho chính bộ phận pháp chế.
  • Cũng cần bổ sung một nhiệm vụ nữa của bộ phận pháp chế doanh nghiệp, đó là đóng vai trò đầu mối làm việc với các cơ quan pháp luật.

—————————–

Luật sư Trương Thanh Đức

 

 

Nghiệp vụ tư vấn các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp

 

  1. Sơ lược về nghiệp vụ tư vấn các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để quản lý và điều hành mọi lĩnh vực để phát triển đất nước. Đất nước phát triển cần có hệ thống pháp luật chặt chẽ, hoàn chỉnh và thực sự đi vào đời sống kinh tế xã hội và quan trọng hơn là ý thức tuân thủ chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của những chủ thể pháp luật. Bởi vậy, mọi người dân Việt Nam nói chung, doanh nghiệp Việt Nam nói riêng cần hình thành cho mình nếp sống và làm việc tuân thủ pháp luật thì mới mong có một xã hội, một nền kinh tế phát triển bền vững.

Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, trong khi đó nhận thức pháp luật của lãnh đạo phần đông có giới hạn, cộng thêm tâm lý ngại va chạm, sợ rườm rà. Yêu cầu của bộ phận pháp chế là phải đảm bảo tính pháp lý, hạn chế rủi ro trong khi các lãnh đạo thường cho đó là sự rắc rối, phức tạp hóa vấn đề… Vì thế đôi khi doanh nghiệp làm việc, xử lý theo thói quen, thậm chí “coi nhẹ” hoặc bỏ qua các quy định pháp luật, do vậy không lường hết được hậu quả có thể xảy ra. Chỉ đến khi có sự cố, có tranh chấp xảy ra thì pháp chế lại là lực lượng phải đi “dọn dẹp hiện trường”, tuy nhiên, không phải lúc nào cũng kịp để ngăn chặn hay đủ thời gian để hạn chế được thiệt hại đối với doanh nghiệp.

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ đúng pháp luật, phòng tránh rủi ro pháp lý là vô cùng quan trọng. Sự cần thiết của bộ phận pháp chế trong doanh nghiệp là không thể phủ nhận. Pháp chế giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh, đem lại sự an toàn pháp lý và tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường. Cần khẳng định rằng, pháp chế doanh nghiệp trước hết là đội ngũ bác sĩ “chăm sóc sức khỏe pháp lý” cho doanh nghiệp. Đội ngũ này cần thấm nhuần một triết lý hết sức đơn giản sau đây: “Nghệ thuật kinh doanh là mềm dẻo, nghệ thuật pháp chế là nguyên tắc, nhưng trên thực tế, kinh doanh cần mềm dẻo một cách có nguyên tắc và pháp chế cần nguyên tắc một cách linh hoạt”. Thiết nghĩ, đây là một trong những phương châm hành động đúng đắn và phù hợp đối với hoạt động pháp chế doanh nghiệp trong thời đại ngày nay.

  1. Những tác động đối với hoạt động của cán bộ pháp chế doanh nghiệp

Những vấn đề tác động đối với hoạt động chung của công tác pháp chế tại các Tập đoàn kinh tế hay doanh nghiệp có thể kể ra như sau:

– Với việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh đa ngành, đa nghề của các Tập đoàn kinh tế trong thời gian qua, lĩnh vực hoạt động của các tổ chức kinh tế này cũng như các công ty con của mình không còn bó hẹp trong 1-2 phạm vi ngành nghề, mà trong quá trình thực hiện các dự án có liên quan rất nhiều đến các lĩnh vực khác như đấu thầu, vận tải, tài chính, bảo hiểm, xây dựng,… do vậy cán bộ pháp chế chưa kịp tích lũy kinh nghiệm thực tiễn là điều khó tránh khỏi.

– Hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước chưa hoàn thiện, nhiều điểm chưa rõ ràng, thống nhất, do vậy việc áp dụng pháp luật gặp không ít khó khăn khi xử lý các tình huống phải tư vấn.

– Hoạt động pháp chế là hoạt động hỗ trợ nên thường xuyên bị động, luôn phải trong tình trạng sẵn sàng kịp thời tư vấn đối với những tình huống pháp lý phát sinh, do vậy trong một số tình huống phức tạp, với thời gian xử lý gấp, cán bộ pháp chế sẽ phải chịu sức ép cao cả về tiến độ và chất lượng công việc.

– Cán bộ pháp chế của các doanh nghiệp nói chung hiện nay còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Trong khi đó chế độ đãi ngộ trong doanh nghiệp Nhà nước chưa thật sự tương xứng với trách nhiệm nghề nghiệp, cũng như yêu cầu công việc mang tính chuyên sâu của cán bộ pháp chế, do vậy chưa thu hút được những người nắm vững kiến thức chuyên môn pháp luật, có kinh nghiệm thực tế, có trình độ ngoại ngữ giỏi vào làm việc. Có thể nói ngoại ngữ là yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ pháp chế trong các doanh nghiệp, đòi hỏi phải thực hiện trực tiếp việc đàm phán, giao dịch… với các đối tác nước ngoài được thực hiện trực tiếp bởi các cán bộ này với khách hàng mà không thông qua phiên dịch. Tuy nhiên số lượng cán bộ pháp chế có thể đáp ứng yêu cầu này không nhiều và cũng rất khó khăn trong việc tuyển dụng.

– Nhận thức của lãnh đạo một vài đơn vị về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác pháp chế còn hạn chế, dẫn đến việc triển khai công tác pháp chế nhiều khi chỉ mang tính hình thức, chưa đi vào bản chất, hiệu quả chưa cao.

– Một số lãnh đạo các phòng/ban chức năng trong các đơn vị đôi khi chưa thật sự coi trọng tư vấn pháp lý do nhận thức còn hạn chế. Vì vậy, các ban chức năng chỉ yêu cầu sự tham gia của bộ phận Pháp chế khi có tranh chấp, bất đồng phát sinh… chứ chưa đề nghị tư vấn pháp lý ngay từ giai đoạn đầu, vì vậy đôi khi dẫn đến tình trạng các vấn đề pháp lý không được giải quyết một cách triệt để hoặc toàn diện.

– Nguồn kinh phí đầu tư cho các hoạt động xây dựng văn bản; tổ chức thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật…  còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế công việc.

  1. Nội dung và phương thức tư vấn các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp

3.1. Các vấn đề pháp lý thường xảy ra trong doanh nghiệp

Tư vấn xử lý các vấn đề nội tại của doanh nghiệp, bao gồm các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động nội bộ doanh nghiệp như xây dựng các quy định quản lý nội bộ, lao động, tiền lương, đổi mới doanh nghiệp…

Một trong những nhiệm vụ rất quan trọng và cơ bản của pháp chế doanh nghiệp là giúp xây dựng được một hệ thống những quy định nội bộ chuẩn mực, phù hợp với các quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng các quy định nội bộ trong các doanh nghiệp thường hay xảy ra các vấn đề sau:

Thứ nhất, về hình thức văn bản: Trong quá trình soạn thảo các quy định nội bộ trong doanh nghiệp, nhiều trường hợp còn chưa xác định được loại văn bản phù hợp cần thiết ban hành (ban hành quy chế, quy định hay quy trình tùy theo tính chất quan trọng và quy mô của vấn đề cần điều chỉnh), dẫn đến trường hợp loại hình văn bản không tương ứng với quy mô và tầm quan trọng của vấn đề cần điều chỉnh. Hoặc xảy ra trường hợp có hai văn bản có đối tượng điều chỉnh tương tự nhau thì một văn bản là quy chế, một văn bản là quy định.

Thứ hai, về thẩm quyền ban hành văn bản trong nội bộ doanh nghiệp còn chưa thống nhất hay chưa được xác định rõ (Hội đồng Thành viên/Hội đồng Quản trị hay Ban Tổng Giám đốc có quyền ban hành văn bản đó).

Thứ ba, tính ổn định của văn bản: Một số văn bản ban hành chỉ trong thời gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế dẫn đến khó khăn trong việc theo dõi và triển khai thực hiện. Nội dung cụ thể của một số văn bản còn sơ sài hoặc cóp nhặt từ các văn bản pháp luật liên quan, tuy nhiên không đầy đủ.

Thứ tư, tham chiếu các quy định của pháp luật: Việc tham chiếu, viện dẫn các quy định pháp luật tại một số văn bản còn chưa đầy đủ dẫn đến tình trạng quy định thiếu, không cập nhật, thậm chí viện dẫn các quy định của pháp luật đã bị sửa đổi bổ sung.

Thứ năm, một số văn bản ban hành có hình thức chưa phù hợp với yêu cầu thực tế (chẳng hạn một số quy trình tác nghiệp không cần thiết ban hành thành quy định do lãnh đạo ký ban hành mà chỉ cần đưa thành quy trình ISO do ban chuyên môn tự thiết lập và chủ động vận dụng cũng như sửa đổi bổ sung).

Thứ sáu, tính thực thi/áp dụng của một số văn bản không cao do không được phổ biến rộng rãi, không có các biện pháp tổ chức thực hiện cụ thể, không được kiểm tra giám sát. Bên cạnh đó ý thức tuân thủ quy định nội bộ trong một số trường hợp chưa thực sự nghiêm túc.

3.2. Nghiệp vụ tư vấn các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp

Để nâng cao hiệu quả của việc soạn thảo, ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ tại các doanh nghiệp, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cán bộ pháp chế doanh nghiệp cần thực hiện tốt các việc sau:

– Việc soạn thảo các văn bản quản lý nội bộ cần có sự tham gia của nhiều bộ phận chuyên môn (đặc biệt là bộ phận pháp chế) để có thể đóng góp được nhiều ý kiến từ các góc độ khác nhau, qua đó các quy định nội bộ mới có thể điều chỉnh đúng các hoạt động chuyên môn phù hợp với thực tế.

– Việc soạn thảo, ban hành các quy định nội bộ cần hết sức tránh việc nhắc lại các văn bản pháp quy mà nhà nước đã ban hành. Các quy định nội bộ phải vận dụng các quy định pháp luật để xây dựng được các quy định riêng nhằm đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp mang đặc thù của doanh nghiệp mình.

– Việc xây dựng các văn bản nội bộ phải nhằm phục vụ được lợi ích tổng thể, hài hòa giữa lợi ích nhà nước và lợi ích doanh nghiệp, giữa công ty mẹ và các đơn vị thành viên, giữa các đơn vị thành viên với nhau chứ không chỉ đáp ứng yêu cầu cục bộ một lĩnh vực hay một đơn vị dẫn đến khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.

– Trong quá trình soạn thảo, cần đặt ra cơ chế kiểm tra, giám sát cũng như bổ sung các quy định mang tính chế tài, thưởng phạt cụ thể việc thực hiện để nâng cao hiệu quả thực hiện quy định nội bộ.

– Hệ thống văn bản, quy định nội bộ cần mang tính đặc thù của ngành/đơn vị, thông qua đó nâng cao hiệu quả của công tác điều hành, quy chuẩn hóa các quy trình thực hiện công việc.

– Một số lĩnh vực cần được chú trọng xây dựng quy định quản lý nội bộ có thể là đầu tư và đấu thầu, cung cấp dịch vụ, an toàn sức khỏe môi trường, khoa học công nghệ, các quy trình kinh doanh nghiệp vụ, quản lý các hợp đồng, quy trình lựa chọn nhà thầu phụ,cụ thể như sau:

+ Trong lĩnh vực quản lý tài chính có thể xây dựng các quy chế về cho vay, quy chế ủy thác cho vay, quy chế cấp vốn cho các đơn vị trực thuộc, quy chế quản lý tài chính đối với lĩnh vực khoa học công nghệ, quy định về lập chứng từ kế toán…

+ Lĩnh vực đầu tư và đấu thầu: Ban hành các quy định về phân cấp quyết định đầu tư và đấu thầu, quy chế quản lý quỹ đầu tư phát triển, quy định về quy trình xúc tiến đầu tư ra nước ngoài, quy định về quy chế và quy trình đánh giá đầu tư, quy chế kiểm tra đấu thầu…

+ Lĩnh vực quản lý nhân sự, lao động tiền lương, chế độ chính sách: Có thể ban hành các quy định về quản lý lao động tiền lương tại các ban Quản lý dự án, các công ty liên doanh, các quy chế về tổng đại diện và đại diện của doanh nghiệp tại nước ngoài…

+ Lĩnh vực khoa học công nghệ, an toàn sức khỏe môi trường, định mức chi tiêu, thực hành tiết kiệm chống lãng phí…

– Các quy chế, quy định quản lý nội bộ đều phải được soạn thảo và ban hành theo đúng quy trình, thẩm quyền được quy định trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp và theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở các quy định quản lý nội bộ này, công tác điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh  nghiệp cũng như công tác điều phối hoạt động giữa các đơn vị, bộ phận có căn cứ rõ ràng, đảm bảo xử lý giải quyết các vấn đề một cách thông suốt và minh bạch. Các quy chế nói trên phải từng bước được chuẩn hóa và tạo thành công cụ hữu hiệu để quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao hiệu quả, uy tín và vị thế của đơn vị.

3.3. Nghiệp vụ tư vấn giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo trong doanh nghiệp:

Một trong số những tình huống pháp lý thường gặp trong doanh nghiệp là việc giải quyết các đơn thư tố cáo, khiếu nại. nội dung các đơn khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chế độ, chính sách việc làm, tiền lương. Nguyên nhân chủ yếu phát sinh do cán bộ công nhân viên trong ngành vi phạm kỷ luật lao động bị xử lý kỷ luật khiếu nại về việc bị xử lý. Nội dung các đơn tố cáo, phản ánh và kiến nghị (phần lớn là nặc danh) chủ yếu liên quan đến số cán bộ có chức quyền ở cơ sở lợi dụng cương vị công tác có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực hoặc đối xử không đúng mực với người lao động. Nguyên nhân phát sinh chủ yếu do một số cán bộ lãnh đạo ở các đơn vị cơ sở có biểu hiện thiếu dân chủ, cửa quyền, tham nhũng tiêu cực, một số trường hợp tố cáo do mâu thuẫn cá nhân. Tất cả các đơn thư khiếu nại, tố cáo có ký tên hoặc không ký tên nhưng có nội dung, số liệu cụ thể hay liên quan đến các lĩnh vực nhạy cảm đều cần được các chuyên gia tư vấn pháp lý cho ý kiến cụ thể, xem xét giải quyết dứt điểm để báo cáo các cấp có thẩm quyền và thông báo kết quả đến nguyên đơn và đơn vị có liên quan theo đúng các quy định pháp luật hiện hành về xử lý khiếu nại, tố cáo.

3.4. Nghiệp vụ  tư vấn pháp lý trong công tác quản lý thương hiệu của doanh nghiệp

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, một nền kinh tế mạnh phải được xây dựng trên nền tảng các tập đoàn đủ tiềm lực cạnh tranh quốc tế, trong đó xây dựng và phát triển thương hiệu là một trong những vấn đề mang tầm chiến lược của các doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thương hiệu trong chiến lược phát triển doanh nghiệp, doanh nghiệp cần xác định lấy thương hiệu là một trong những công cụ quản trị trung tâm nhằm phát huy tối đa nội lực, xây dựng nhận thức của cộng đồng, củng cố danh tiếng, quảng bá hình ảnh về một đơn vị kinh tế vững mạnh, có thương hiệu mang tầm quốc gia, qua đó tạo lợi thế cho mình trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, mở rộng thêm mạng lưới đối tác trong và ngoài nước.

Bộ phận pháp chế trong doanh nghiệp cần tư vấn triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, đưa ra nhiều quyết sách phù hợp nhằm đáp ứng được tình hình phát triển của doanh nghiệp, từng bước hoàn thiện khung pháp lý để thực thi có hiệu quả công tác quản lý thương hiệu của doanh nghiệp, góp phần làm gia tăng uy tín, giá trị Thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của các công ty/đơn vị sử dụng Thương hiệu/Nhãn hiệu của doanh nghiệp, giúp công tác thực thi và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đạt hiệu quả cao hơn, hạn chế tối đa các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương hiệu của doanh nghiệp.

Các giải pháp để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thương hiệu của doanh nghiệp được xây dựng và tổ chức thực hiện như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định, quy chế nội bộ của doanh nghiệp về công tác quản lý Thương hiệu.

Với mục đích đưa công tác quản lý đi vào quỹ đạo, đảm bảo tính chuyên nghiệp và quy chuẩn theo quy định của pháp luật; tạo được sự thống nhất trong việc quản lý và điều hành các vấn đề liên quan đến Thương hiệu nói chung và Nhãn hiệu nói riêng của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả Thương hiệu/Nhãn hiệu doanh nghiệp, bộ phận pháp chế cần chủ trì và phối hợp với các ban chức năng xây dựng để ban hành Quy chế Quản lý Thương hiệu của doanh nghiệp nhằm thống nhất công tác quản lý thương hiệu doanh nghiệp quy chuẩn theo quy định của pháp luật và Điều lệ của doanh nghiệp, đồng thời phù hợp với chiến lược đổi mới, tái cơ cấu của đơn vị. Việc ban hành và thực hiện Quy chế quản lý thương hiệu là một bước tiến quan trọng, góp phần quản lý hữu hiệu hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp trước các đối tác cũng như trước công chúng.

Thứ hai, kiểm tra, rà soát, lập danh sách các công ty/đơn vị được phép sử dụng Nhãn hiệu doanh nghiệp; tổ chức ký và thực hiện các Hợp đồng chuyển quyền sử dụng Nhãn hiệu của doanh nghiệp.

Thứ ba, nhận chuyển nhượng lại toàn bộ các Giấy đăng ký nhãn hiệu và/hoặc Đơn đăng ký nhãn hiệu có chứa yếu tố đặc trưng của doanh nghiệp tại các công ty/đơn vị thành viên nhằm thống nhất triệt để công tác quản lý Nhãn hiệu, thương hiệu doanh nghiệp, thực hiện mục tiêu quản lý Thương hiệu theo mô hình “Doanh nghiệp mẹ là chủ sở hữu duy nhất đối với tất cả các nhãn hiệu hoặc các yếu tố đặc trưng khác thuộc sở hữu chung của tổ hợp doanh nghiệp đó”. Mục đích của hoạt động này là nhằm chấm dứt tình trạng trong cùng một tổ hợp doanh nghiệp nhưng có nhiều công ty con đăng ký các nhãn hiệu khác nhau không mang đặc trưng của doanh nghiệp đó hoặc tình trạng một nhãn hiệu có thể có nhiều chủ sở hữu.

Thứ tư, rà soát, chấn chỉnh và sửa đổi việc đặt tên thương mại của doanh nghiệp thành viên

Bộ phận pháp chế cần tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp về việc yêu cầu các đơn vị rà soát, chấn chỉnh và sửa đổi tên viết tắt của các công ty thành viên trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc sau: (i) Chỉ các doanh nghiệp cấp II của doanh nghiệp (công ty con) hoặc các doanh nghiệp được doanh nghiệp mẹ cho phép mới được sử dụng tên thương mại, tên viết tắt theo cấu trúc tên tắt của doanh nghiệp + tên thương mại viết tắt của doanh nghiệp cấp II; (ii) Tên viết tắt của doanh nghiệp cấp III phải tuân thủ theo cấu trúc tên viết tắt của doanh nghiệp cấp II + tên thương mại viết tắt của doanh nghiệp cấp III.

Việc rà soát, chấn chỉnh và sửa đổi tên viết tắt của các công ty thành viên cần được thực hiện một cách tích cực, nghiêm túc và phải thường xuyên được kiểm tra, giám sát; đặc biệt cần chú trọng đến vấn đề này trong quá trình tái cơ cấu và đổi mới doanh nghiệp đối với những đơn vị mới thành lập, sáp nhập hay chuyển đổi.

Thứ sáu, tư vấn lập kế hoạch phát triển Thương hiệu của doanh nghiệp

Bộ phận pháp chế/quản lý thương hiệu cần xây dựng (hoặc thuê tư vấn xây dựng) và đề xuất lãnh đạo doanh nghiệp ban hành Hệ thống nhận diện thương hiệu của doanh nghiệp (Bộ nhận diện Thương hiệu), đồng thời yêu cầu các đơn vị thành viên xây dựng Bộ nhận diện thương hiệu của mình và triển khai đồng bộ trong toàn đơn vị với mục đích tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng Nhãn hiệu doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động truyền thông-marketing, quảng bá hình ảnh thương hiệu và nâng cao vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ bảy, tư vấn xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát nội bộ trong công tác quản lý Thương hiệu của doanh nghiệp

Việc xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát nội bộ với mục đích đảm bảo thực hiện hiệu quả các giải pháp quản lý thương hiệu góp phần tạo dựng và gia tăng uy tín, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp.

Trong suốt quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp cần không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nội bộ để thông báo, ngăn chặn kịp thời việc lưu thông trên thị trường các sản phẩm mang Nhãn hiệu của doanh nghiệp mình nhưng không đảm bảo chất lượng, làm ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu của doanh nghiệp đó hoặc ảnh hưởng đến các công ty/đơn vị thành viên khác sử dụng Nhãn hiệu của doanh nghiệp, cũng như các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, mâu thuẫn với quyền lợi của doanh nghiệp và các công ty/đơn vị sử dụng Nhãn hiệu doanh nghiệp, gây tổn hại nghiêm trọng về vật chất cũng như uy tín của doanh nghiệp và các công ty/đơn vị trong tổ hợp doanh nghiệp.

Việc kiểm tra công tác quản lý Thương hiệu của doanh nghiệp nhằm có đánh giá tổng thể về tình hình sử dụng Thương hiệu, phát hiện những bất cập trong công tác quản lý Thương hiệu, những khó khăn của các đơn vị sử dụng Thương hiệu để nghiên cứu và đề xuất phương án xử lý, nâng cao hiệu quả công tác quản lý Thương hiệu của doanh nghiệp.

Việc kiểm tra công tác quản lý Thương hiệu đồng thời góp phần đảm bảo không để xảy ra hiện tượng sử dụng Nhãn hiệu không phép, trái phép, sử dụng sai mục đích, không phù hợp với đăng ký kinh doanh, với danh mục sản phẩm đã đăng ký của nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của pháp luật, với hợp đồng chuyển quyền sử dụng Nhãn hiệu đã ký giữa doanh nghiệp và đơn vị nhận chuyển nhượng, cũng như không để các công ty/đơn vị sử dụng Nhãn hiệu doanh nghiệp trong các giao dịch, hoạt động kinh doanh trái pháp luật và trái với các quy định nội bộ của doanh nghiệp.

  1. Tư vấn, tham gia xử lý các vấn đề liên quan đến môi trường kinh doanh, đầu tư, hợp đồng kinh tế, đặc biệt khi tiến hành hoạt động kinh doanh/đầu tư

4.1. Đánh giá, phân loại các dạng khách hàng/đối tác từ góc nhìn và quan điểm của cán bộ pháp chế

Theo kinh nghiệm của một số cán bộ pháp chế làm việc lâu năm trong lĩnh vực thương mại, đấu thầu, trên khía cạnh pháp chế – hợp đồng có thể phân loại ra một số dạng khách hàng chung như sau trong quá trình đàm phán:

Thứ nhất, khách hàng nước ngoài xuất phát từ các nước có hệ thống pháp luật phát triển như Châu Âu, Bắc Mỹ: Những khách hàng này rất coi trọng nội dung, câu chữ hợp đồng vì vậy rất khó khăn khi đàm phán. Việc đàm phán hợp đồng thường kéo dài, đôi khi rất căng thẳng do các bên nhìn nhận và tiếp cận vấn đề theo các góc độ khác nhau. Trong khi đối tác nước ngoài rất chú trọng đến việc chỉnh sửa ngôn từ, rất máy móc cứng nhắc trong đàm phán; hầu hết các thay đổi về câu chữ các đối tác này đều yêu cầu có ý kiến của luật sư. Còn phía Việt Nam thường muốn xuê xoa về câu chữ, phát sinh do thay đổi câu chữ lại cần sự chỉ đạo của lãnh đạo. Vì vậy đôi khi quá trình đàm phán hay bị bế tắc. Tuy nhiên cũng chính do câu chữ hợp đồng quy định chi tiết nên trong quá trình thực hiện rất dễ viện dẫn để giải thích hợp đồng, vì vậy ít khi xảy ra tranh chấp.

Thứ hai, khách hàng thuộc nhóm các nước đang phát triển: Nhóm khách hàng này có cách tư duy và nhìn nhận vấn đề khá giống với đối tác Việt Nam. Nhóm khách hàng này khá linh hoạt trong quá trình đàm phán, có thể sẵn sàng bỏ qua việc chỉnh sửa câu chữ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu giữa hai bên chưa xác lập được mối quan hệ lâu dài thì việc thực hiện hợp đồng đôi khi gặp trở ngại do các đối tác này thường tìm các sơ hở trong quá trình thực hiện để gây áp lực ngược lại. Một nghịch lý nhưng dễ hiểu trong quá trình hình thành và tổ chức thực hiện hợp đồng/dự án với một số khách hàng nhất định là “càng dễ đàm phán thì càng khó thực hiện”.

Thứ ba, nhóm khách hàng không quan tâm hoặc “sợ” đụng đến câu chữ, pháp lý hợp đồng mà thường kinh doanh dựa nhiều trên cơ sở tập quán, phong tục vùng miền hay dựa vào lòng tin tưởng, lời nói. Đây thường là những khách hàng nội địa, đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu. Kinh doanh với các đối tác này có thể đạt hiệu quả kinh tế cao, tuy nhiên trong thời gian dài thì rất có thể nảy sinh các vấn đề pháp lý nghiêm trọng do các nghĩa vụ và quyền lợi của các bên không được thể hiện bằng văn bản hợp đồng, do đó không có cơ sở để giải quyết tranh chấp. Ví dụ như khi triển khai kinh doanh (thường là bán lẻ) tại khu vực Nam bộ, việc thỏa thuận hợp đồng thường được “đàm phán” tại các cuộc nhậu, do đó câu chữ hình thức thường bị gác lại một bên. Đây thực sự là một “thách thức” không nhỏ đối với cán bộ pháp chế trực tiếp làm hợp đồng nếu muốn hoàn thành nghĩa vụ của mình là xác lập một hợp đồng rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ, đúng pháp luật và đem lại hiệu quả kinh tế cho cả hai bên.

4.2. Đánh giá rủi ro môi trường đầu tư, kinh doanh, pháp lý đối với các dự án đầu tư của doanh nghiệp ra nước ngoài

Việc đánh giá môi trường đầu tư ngoài các tiêu chí về mặt kinh tế – kỹ thuật thì việc đánh giá những rủi ro về môi trường đầu tư là cực kỳ quan trọng. Ví dụ như tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, trên cơ sở triển khai các dự án cũng như thông qua quá trình hợp tác, các bộ phận chuyên môn đã xây dựng được bảng hệ số rủi ro về môi trường đầu tư và hợp đồng, làm cơ sở để tham khảo trong quá trình đánh giá các cơ hội đầu tư. Việc đánh giá rủi ro về môi trường đầu tư đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài được xác định theo khu vực đầu tư và hình thức hợp đồng.

Ví dụ về phân chia theo khu vực đầu tư:

  • Khu vực Đông Nam Á (Có điều kiện địa lý, kinh tế và chính trị khá ổn định và khá tương đồng/quen thuộc với các nhà đầu tư Việt Nam) thì hệ số rủi ro (Ro) bằng 1%
  • Khu vực Châu Phi, Đông Âu: Hệ số rủi ro bằng 2%
  • Khu vực Trung Mỹ, Nam Mỹ : Hệ số rủi ro bằng 3%
  • Khu vực Trung Đông (Đối với các nước có hệ thống chính trị thiếu ổn định hoặc trong khu vực thường xảy ra tranh chấp), hệ số rủi ro bằng 4%.
  • Các khu vực khác: Hệ số rủi ro được quyết định tùy theo trường hợp cụ thể.

Trong trường hợp phân chia theo hình thức hợp đồng, thì các dự án áp dụng hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) hay hợp đồng dịch vụ là các hình thức hợp đồng khá quen thuộc, được áp dụng nhiều tại Việt Nam, có quy định rõ ràng, minh bạch… thì không áp dụng hệ số rủi ro. Tuy nhiên đối với các dạng hợp đồng khác như hợp đồng tô nhượng, giấy phép thăm dò/phát triển/khai thác hoặc các hợp đồng không có điều khoản kinh tế rõ ràng thì hệ số rủi ro về môi trường pháp lý được cộng thêm tỷ lệ là 1%.

Việc xây dựng và áp dụng bảng hệ số rủi ro nói trên tạo được cơ sở ban đầu cho việc xem xét các rủi ro về môi trường pháp lý, hỗ trợ cho quá trình xây dựng dự án đầu tư phù hợp với từng địa bàn và quốc gia cụ thể.

4.3. Xây dựng hợp đồng trên cơ sở kết quả đánh giá khách hàng và môi trường đầu tư:

Về hợp đồng, một số không ít cán bộ làm công tác pháp chế liên quan đến hợp đồng với đối tác nước ngoài đều thực hiện trên cơ sở tự tìm hiểu thông tin, lý thuyết và tích luỹ thông qua quá trình làm việc thực tiễn (kinh nghiệm thực tế) chứ ít được đào tạo bài bản và chuyên sâu trong và ngoài nước đáp ứng đúng yêu cầu và đòi hỏi công việc tại đơn vị. Vì vậy đôi khi việc xây dựng hợp đồng còn dựa kinh nghiệm chứ chưa thực sự hiểu sâu vấn đề, đặc biệt đối với các điều khoản liên quan đến luật áp dụng và giải quyết tranh chấp trong hợp đồng, ví dụ như:

  • Trong thương mại quốc tế, nhiều hợp đồng tham chiếu áp dụng luật của nước thứ ba (thông thường là luật Anh, Mỹ…) do nhiều đối tác chưa tin tưởng vào hệ thống luật pháp của Việt Nam vì không đầy đủ và thường xuyên thay đổi. Đặc biệt các nhà thầu nước ngoài hoặc liên doanh do phía nước ngoài nắm quyền điều hành thường yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài cho các hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng thương mại, cụ thể là áp dụng luật Singapore hoặc luật Anh và xứ Wales. Tuy nhiên ngoài những quy định cụ thể trong hợp đồng đã được thống nhất giữa hai bên thì việc chấp thuận áp dụng luật nước ngoài để điều chỉnh và giải thích hợp đồng là một việc khá “mạo hiểm”. Hệ thống luật Anh – Mỹ có khác biệt rất lớn với hệ thống luật pháp Việt Nam (mang ảnh hưởng nhiều của hệ thống dân luật (civil law) theo kiểu Pháp và hệ thống pháp luật của các nước XHCN Đông Âu). Số lượng cán bộ pháp chế tại các doanh nghiệp gần đây nắm được quy định của luật Anh – Mỹ là không nhiều (trừ một số ít được đào tạo luật tại nước ngoài), mặc dù thời gian gần đây có được tăng cường đào tạo, bồi dưỡng thêm. Tuy nhiên để đạt được mục đích lớn nhất là ký kết được hợp đồng thì đôi khi phải chấp nhận việc mạo hiểm ấy để “đánh đổi” lấy các điều khoản khác. Tất nhiên để muốn chấp nhận điều này thì phải xây dựng được một hợp đồng rất chi tiết, quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ngay trong hợp đồng chứ không phụ thuộc vào việc giải thích/áp dụng luật.
  • Một vấn đề nữa về luật áp dụng trong hợp đồng đối với cán bộ pháp chế khi đàm phán hợp đồng cần phải cân nhắc rất kỹ. Đó là khi đã thuyết phục được đối tác chấp nhận luật áp dụng là luật Việt Nam, tuy nhiên lại chưa triệt để khi chấp nhận đối tác thêm vào câu “Trong trường hợp luật Việt Nam không có quy định hoặc không đầy đủ thì áp dụng luật nước thứ ba (Anh/Mỹ) với điều kiện “không trái với những nguyên tắc cơ bản của luật Việt Nam”. Đây thực sự là một điều khoản khá “mơ hồ” và cực kỳ khó áp dụng hay lý giải, rất dễ dẫn đến xung đột pháp luật khi giải thích hợp đồng. Tuy nhiên trong lúc luật pháp Việt Nam chưa đầy đủ và đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, mọi hoạt động thương mại đều mang tính quốc tế cao, thì việc phải chấp nhận vận dụng vào một hệ thống luật của nước khác hay thông lệ, tập quán quốc tế để giải thích/xử lý một vấn đề cụ thể đôi khi là điều bắt buộc phải làm.
  • Trong các hợp đồng với đối tác nước ngoài, điều khoản Giải quyết tranh chấp thường áp dụng Tòa án trọng tài ở một nước thứ ba (trung lập) với quy tắc xét xử thường là ICC, UNCITRAL hay London (đôi khi áp dụng quy tắc xét xử của nước thứ ba như quy tắc SIAC của Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore chẳng hạn). Vì vậy đòi hỏi mà cán bộ pháp chế phải nắm vững, tìm hiểu cặn kẽ các ưu điểm hay hạn chế của các phương thức giải quyết tranh chấp đối với từng hợp đồng, đối tác cụ thể.
  • Một số các điều kiện trong hợp đồng với đối tác nước ngoài thường được sử dụng văn phạm tiếng Anh khá phức tạp, điển hình là các điều khoản về giới hạn trách nhiệm và bồi thường thiệt hại (liability and indemnity), bảo hiểm (insurance), bất khả kháng (force majeur)… do các luật sư nước ngoài soạn thảo. Đây là các điều khoản rất quan trọng, vì vậy khi đàm phán với đối tác về các điều khoản này, để tránh các “bẫy” về câu chữ, cần sử dụng ngôn ngữ (tiếng Anh) đơn giản, rõ ràng; yêu cầu luật sư đối tác giải thích căn kẽ chứ không tự diễn giải theo ý chủ quan.
  1. Kết luận:

Do đặc thù của mỗi ngành nghề, doanh nghiệp khác nhau, vì vậy tính chất công việc của bộ phận pháp chế doanh nghiệp cũng khác nhau, đòi hỏi mỗi cán bộ pháp chế phải có những kỹ năng và phương pháp nghiệp vụ riêng. Vì vậy trong tài liệu này chỉ có mục đích nhằm chia sẻ và trao một số kinh nghiệm nghiệp vụ thông qua hoạt động thực tiễn công tác pháp chế tại doanh nghiệp.

Để công tác pháp chế tại doanh nghiệp được thuận lợi, lãnh đạo doanh nghiệp phải luôn nhận thức và coi trọng việc xây dựng được một bộ phận chuyên trách để chuyển tải kiến thức pháp luật vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, từng bước mở rộng và nâng dần hệ thống tri thức pháp luật cho lãnh đạo và cán bộ, công nhân viên trong toàn bộ máy. Bộ phận pháp chế phải là ban chuyên trách với các cán bộ có trình độ cử nhân, thạc sỹ luật, thông thạo ngoại ngữ, tham gia đàm phán, kiểm tra nhiều hợp đồng và văn bản pháp lý khác, tham mưu giúp lãnh đạo doanh nghiệp quyết định kịp thời, đúng đắn giải nhiều vấn đề phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời nắm bắt nhiều cơ hội kinh doanh, hạn chế rủi ro trong hoạt động của mình. Không chỉ thiếp lập được tổ chức bộ phận pháp chế tại doanh nghiệp mẹ mà đối với các đơn vị thành viên thuộc tổ hợp doanh nghiệp đó cũng cần có bộ phận pháp chế trong cơ cấu tổ chức của mình (các đơn vị thành viên lớn cần thành lập bộ phận pháp chế chuyên trách, các đơn vị vừa và nhỏ cần có cán bộ pháp chế chuyên trách hoặc kiêm nhiệm).

Do tính chất đặc thù của các doanh nghiệp có kinh doanh quốc tế là môi trường làm việc thường xuyên quan hệ với các tổ chức và cá nhân nước ngoài, đặc biệt từ các nước có môi trường và chuẩn mực pháp lý cao; chính vì vậy lãnh đạo các doanh nghiệp cần tạo điều kiện tốt nhất để cán bộ nói chung và cán bộ pháp chế nói riêng thường xuyên gặp gỡ trao đổi, tham gia nhiều khóa đào tạo chuyên sâu về kiến thức pháp lý trong nước cũng như nước ngoài. Bên cạnh đó cần chú trọng việc tạo điều kiện tốt nhất cho cán bộ tự học, nghiên cứu nâng cao trình độ thông qua việc hỗ trợ kinh phí đào tạo, tạo điều kiện về thời gian…; tạo dựng mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên với các tổ chức pháp chế khác như Bộ Tư pháp, Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, các Hiệp hội doanh nghiệp, Phòng Thương mại Công nghiệp VN… thông qua các chương trình bồi dưỡng kiến thức pháp luật, hội thảo làm rõ thêm những nội dung pháp lý, thông lệ quốc tế và tập quán quốc tế. Đối với nhiều vấn đề liên quan tới hợp đồng, dự án lớn với đối tác nước ngoài thì doanh nghiệp cần chủ động thuê các công ty luật nước ngoài có uy tín, thương hiệu để trực tiếp tư vấn pháp lý qua đó các cán bộ làm công tác pháp chế có điều kiện và cơ hội học hỏi nâng cao nhận thức pháp luật.

Tọa đàm Bộ Tư pháp, Hà Nội 22-11-2013  

 —————————–

Trương Thanh Đức

ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN

FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)

E-mail: duc.tt @anvilaw.com

Web: www.anvilaw.com

ĐT: 090.345.9070

Bài viết 

308. Mất tiền từ séc giả, trách nhiệm thuộc...

(VNB) - Khi sự việc xảy ra, cần xác định ai là người có lỗi, lý do, nguyên...

Trích dẫn 

3.710. Sự cố VNDirect: Ai sẽ chịu trách nhiệm khi...

(VOV.VN) - Ngày thứ 3 kể từ thời điểm tạm dừng hoạt động, hệ thống...

Bình luận 

ANVI Luận cứ: Không thể áp dụng nguyên tắc bất...

Luận cứ bào chữa cho bị cáo Trương Mỹ Lan trong Vụ án Trương Mỹ Lan...

Phỏng vấn 

4.268. Luật sư kiến nghị đánh giá lại tội danh...

(QHTV) - Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”, gồm 334...

Số lượt truy cập: 201,562