(ANVI) – Hội thảo CIEM Hà Nội 09-10-2014
BÌNH LUẬN VỀ CON DẤU PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG DỰ THẢO LUẬT DOANH NGHIỆP[1]
Giữ lại con dấu bắt buộc đối với doanh nghiệp và lại còn khoác thêm giá trị pháp lý cho nó, là đi ngược lại cả loài người, là tự trói mình vào sợi dây pháp lý rắc rối, không cần thiết, lợi ít, hại nhiều.
- Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì con dấu bắt buộc phải có đối với các pháp nhân, tổ chức nói chung, với các doanh nghiệp nói riêng. Điều này được thể hiện rõ nhất tại 2 quy định sau:
- “Doanh nghiệp có con dấu riêng. Con dấu của doanh nghiệp phải được lưu giữ và bảo quản tại trụ sở chính của doanh nghiệp. Hình thức và nội dung của con dấu, điều kiện làm con dấu và chế độ sử dụng con dấu thực hiện theo quy định của Chính phủ.”, theo quy định tại khoản 1, Điều 36 về “Con dấu của doanh nghiệp”, Luật Doanh nghiệp năm 2005;
- “Con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước.”, theo quy định tại Điều 1, Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24-8-2001 của Chính phủ về Quản lý và sử dụng con dấu, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 31/2009/NĐ-CP ngày 01-4-2009.
- Quy định về con dấu của doanh nghiệp trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp (Dự thảo ngày 19-9-2014) đã có những thay đổi cơ bản theo hướng, từ yêu cầu bắt buộc phải có con dấu và có vai trò quyết định giá trị pháp lý đối với văn bản, giấy tờ của doanh nghiệp, sang “Hình thức và nội dung con dấu do doanh nghiệp quyết định và đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.” và “Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu.”, theo quy định tại khoản 1 và 3, Điều 44 về “Con dấu của doanh nghiệp”.
- Tuy nhiên, khi thể hiện nội dung nói trên trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp, thì còn bộc lộ một số điểm bất cập như:
- Quy định một trong những nội dung đề nghị đăng ký doanh nghiệp là “mẫu dấu” tại khoản 8, Điều 24 về “Nội dung giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp”. Như vậy đồng nghĩa với việc doanh nghiệp vẫn bắt buộc phải có con dấu;
- Quy định “Con dấu là tài sản của doanh nghiệp” và “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm quản lý việc sử dụng và lưu giữ con dấu” tại Điều 44 về “Con dấu của doanh nghiệp” là vẫn đề cao con dấu như trước đây.
- Nếu quy định về con dấu trong Dự thảo Luật như nói trên, cùng với quy định “Hình thức và nội dung con dấu do doanh nghiệp quyết định và đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh” và “Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu.”, thì vẫn gần như đồng nghĩa với việc doanh nghiệp bắt buộc phải có con dấu và chưa thoát khỏi cái ô pháp lý chụp cho con dấu. Thế là cải cách nửa vời, gây hỗn loạn, lo lắng cho xã hội; gây thêm khó khăn, rắc rối cho doanh nghiệp. Nếu quy định như vậy, thì tốt nhất là hãy giữ nguyên như cũ.
- Vì vậy, đề nghị phải quy định rõ là: Doanh nghiệp không bắt buộc phải có con dấu hoặc doanh nghiệp có thể có con dấu và việc đóng dấu của doanh nghiệp không nhằm khẳng định giá trị pháp lý của văn bản.
- Tại sao cần bỏ con dấu pháp lý?
- Trước hết, cần xác định rõ vấn đề, không phải là việc thay đổi từ bắt buộc phải có con dấu theo quy định thống nhất của Bộ Công an sang bắt buộc phải có con dấu do doanh nghiệp tự quyết định, mà là bỏ hẳn việc bắt buộc phải có con dấu, tức không nhất thiết phải có con dấu. Khi đó con dấu chỉ có giá trị nhận biết, phụ thêm, như thể lô gô, biểu tượng, như là con dấu chức danh.
- Thật đáng buồn khi màn chào đời, giao dịch đầu tiên của doanh nghiệp, luôn phải là gặp công an, chứ không phải là việc quản lý doanh nghiệp hay hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp dù đã được sinh ra, đã có giấy khai sinh hợp pháp rồi, nhưng lại vẫn coi như chưa được sinh ra, nếu chưa được công an cho phép khắc và sử dụng mẫu dấu.
- Theo một nguồn thông tin, hiện nay, chỉ có 7 quốc gia quy định việc đóng dấu của doanh nghiệp mang tính bắt buộc và nhằm xác nhận chữ ký, tư cách pháp lý. Còn khoảng 171 quốc gia khác, thì con dấu chỉ thể hiện ý nghĩa là dấu hiệu, biểu trưng cho một doanh nghiệp mà thôi.
- Theo quy định pháp luật hiện hành, thì con dấu là tài sản, là báu vật, là linh hồn không thể thiếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên vì đó là những giá trị không có thật, nên dẫn đến những mâu thuẫn, rắc rối ghê gớm. Ngay cả khi có sự tranh chấp, xâm phạm con dấu, thì hầu như cũng không xử lý được các hành vi chiếm giữ con dấu pháp lý của doanh nghiệp. Công an thì cho rằng đó lả tranh chấp, là quan hệ dân sự, còn toà án thì cũng không thụ lý giải quyết tranh chấp. Thế là dẫn đến tình trạng bế tắc của doanh nghiệp.
- Cá nhân cũng có thể ký hợp đồng giao dịch lên đến hàng chục, hàng trăm tỷ đồng khắp trong và ngoài nước, cũng ký đủ thứ đơn từ pháp lý, gửi khắp các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đâu có cần phải có con dấu? Vậy thì các pháp nhân hà cớ gì mà cứ phải dùng con dấu như bảo bối, vật bất ly thân?
- Chính khoản 1, Điều 14 về “Hợp đồng trước đăng ký kinh doanh” của Luật Doanh nghiệp hiện hành cũng như Điều 19 về “Hợp đồng trước đăng ký doanh nghiệp” của Dự thảo Luật Doanh nghiệp cũng quy định có trường hợp giao dịch của doanh nghiệp không cần con dấu. Đó là quy định cho phép “Người thành lập doanh nghiệp được ký các loại hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp trước và trong quá trình đăng ký doanh nghiệp.” và nếu “doanh nghiệp được thành lập thì doanh nghiệp đương nhiên tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết”. Như vậy rõ ràng, không cần con dấu, vẫn có thể ký và thực hiện hợp đồng với tư cách của doanh nghiệp.
- Luật quốc gia và luật thị trưởng chấp nhận việc sử dụng chữ ký điện tử thay cho chữ ký tươi (ướt) và cũng đồng thời “phế truất” luôn con dấu pháp lý. Đã công nhận chữ ký điện tử thay cho chữ ký tay trực tiếp, thì cũng không có lý do gì mà không công nhận con dấu điện tử, tức là hai trong một (chữ ký và con dấu). Như vậy, thì có thể khẳng định ngay là có thể xoá bỏ con dấu như hiện nay, tức là hoàn toàn có thể bỏ hẳn con dấu 36 – 34 – 32 mm của doanh nghiệp và các bộ phận phụ thuộc.
- Bỏ được con dấu pháp lý bắt buộc là cởi bớt một xiềng xích đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải bám chặt vào con dấu, là tự mua dây buộc mình. Tuy nhiên, khi đã quá phụ thuộc rồi, “ngựa quen đường cũ” rồi, bị trói chặt quá rồi, đã trở thành một phần tất yếu rồi, nay được tháo dây, cởi trói, thì rất có thể lại thấy mất mát, tiếc rẻ, lo lắng, thậm chí là sợ hãi, vì cái gì cũng có hai mặt lợi và hại.
- Cái lợi của việc bắt buộc có con dấu pháp lý:
- Tiện lợi trong việc nhận biết với chính nội bộ doanh nghiệp và mọi đối tượng ở bên ngoài doanh nghiệp, do con dấu, được quy chuẩn tương đối cụ thể, thống nhất và điều quan trọng nhất là được Bộ Công an “bảo lãnh”. Tuy nhiên, trên thực tế cũng còn vô cùng lộ cộ, lộn xộn, như phòng giao dịch của ngân hàng đang được ngành Công an yêu cầu khắc dấu theo ít nhất 3 cách như sau:
- Ngân hàng ABC – Chi nhánh OPQ – Phòng giao dịch XYZ;
- Phòng giao dịch XYZ – Chi nhánh OPQ – Ngân hàng ABC;
- Chi nhánh OPQ – Phòng giao dịch XYZ – Ngân hàng ABC.
- Đối tác, người liên quan có thể “trông mặt mà bắt hình dong”, nhìn vào khuôn dấu, với một hay hai vành tròn, kích cỡ con dấu là 32, 34 hay 36 mm mà suy luận ra Công ty hay đơn vị có hay không có tư cách pháp nhân. Chẳng hạn các công ty sau đây, nếu chỉ căn cứ vào tên gọi hợp pháp, chính thức theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp, thì là các công ty mà đã là công ty thì đương nhiên có đầy đủ tư cách pháp nhân, nhưng nếu “đọc” trên con dấu, thì có thể khẳng định rằng, đó chỉ là các chi nhánh, là đơn vị phụ thuộc pháp nhân chứ không phải là công ty, không phải là các pháp nhân:
- Công ty Giấy Tissue Sông Đuống – Tổng Công ty Giấy Việt Nam;
- Công ty Vận tải biển Vinalines – Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam;
- Công ty Điện thoại Đông thành phố – Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam.
- Dễ dàng trong việc phân biệt văn bản bản chính thức, đã phát hành của doanh nghiệp với các bản nháp, bản chưa công bố, ban hành, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp lớn với hàng trăm chi nhánh, hàng nghìn nhân viên, phát hành hàng vạn văn bản mỗi năm.
- Dễ dàng sao chép, nhân bản, vì chỉ cần ký 1 bản, rồi photo đóng dấu là có giá trị như bản chính, lãnh đạo khỏi tốn công, tốn mực ký nhiều bản.
- Cái hại của việc bắt buộc có con dấu pháp lý:
- Gây khó khăn cho việc hoàn thiện thủ tục hoạt động và giao dịch của doanh nghiệp. Thực tế, doanh nghiệp thường phải mang dấu ra khỏi trụ sở để đóng trước mặt công chứng viên hay để đóng dấu tại chỗ ngay sau khi ký, nhằm nhanh chóng hoàn thiện hợp đồng, văn bản để thúc đẩy các giao dịch kinh tế, dân sự. Luật đã cơi nới bằng cách cho phép doanh nghiệp được sử dụng 2 con dấu. Nhưng có 2 con dấu, doanh nghiệp vẫn thấy chưa đủ. Bằng chứng là Công ty Honda Việt Nam, một doanh nghiệp rất bài bản và uy tín, còn đề nghị cho doanh nghiệp có 3 con dấu.[2]
- Người giữ dấu như giữ “linh hồn” của doanh nghiệp. Thế nên người đại diện theo pháp luật hay người có quyền to nhất trong doanh nghiệp đã ký văn bản, nhưng lại phải chờ nhân viên văn thư cộp dấu thì chữ ký của mình mới có giá trị pháp lý? Và rồi, về mặt pháp lý là quy định như thế, nhưng lại chẳng phải là thế. Hợp đồng ký giữa 2-3 bên, nếu không đóng dấu thì vẫn có hiệu lực, vẫn ràng buộc cam kết, không thể vô hiệu chỉ vì chưa đóng dấu, chưa “khẳng định giá trị pháp lý của khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ”. Nếu cho rằng, hợp đồng của doanh nghiệp chưa đóng dấu là chưa có hiệu lực, thì có thể suy rộng ra, hợp đồng ký giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Mỹ, không có tiêu đề “Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thì cũng vô giá trị? Vì theo quy định tại khoản 2, Điều 4 về “Hình thức văn bản” và điểm a, khoản 1, Điều 5 về “Thể thức văn bản”, Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08-4-2004 của Chính phủ về Công tác văn thư, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 09/2010/NĐ-CP ngày 08-02-2010, thì giấy tờ giao dịch của doanh nghiệp bắt buộc phải ghi Quốc hiệu.
- Một nhà không có 2 chủ, một nước không có 2 vua, một văn bản của doanh nghiệp không thể quyết định bởi 2 yếu tố pháp lý ngang ngửa nhau là chữ ký và con dấu. Văn bản có chữ ký thật, mà đóng dấu giả thì giá trị đến đâu? Và ngược lại, đóng dấu thật mà chữ ký giả thì giá trị ra sao? Đáp án nào cũng không thoả đáng. Lúc nào cũng đặt doanh nghiệp “giữa 2 làn đạn”. Vậy thì chỉ có cách duy nhất là một mất một còn, giữ một, bỏ một. Qua thực tế các vụ tranh chấp liên quan đến con dấu như: Cưỡng chế giao nộp con dấu tại Công ty Đay Sài Gòn, cuộc chiến buộc Tổng Giám đốc bàn giao con dấu tại Công ty Bông Bạch Tuyết hay Công ty Sudico kêu cứu vì bị “cưỡm” con dấu, rồi Thủ tướng phải nhảy vào cuộc cho phép Trường Đại học Hùng Vương được khắc và sử dụng con dấu thứ 2,… đã cho thấy sai lầm về việc xác định sai vai trò pháp lý của con dấu.
- Vì quá phụ thuộc, dựa dẫm, trông chờ, tôn thờ, trao cho con dấu quyền năng quá mức, nên mới dẫn đến tình trạng làm giả con dấu thì rất dễ lợi dụng lừa đảo. Cả một xã hội, khi thấy con dấu đỏ là tỏ rõ sự yên tâm chấp nhận, vì coi đã nắm được “bảo bối” pháp lý. Nếu không quá đề cao và quy định giá trị pháp lý bắt buộc của con dấu, thì Huỳnh Thị Huyền Như đã không dễ dàng lừa đảo Vietinbank để chiếm đoạt gần 4.000 tỷ đồng, mà phần lớn là thông qua 8 con dấu làm giả một cách vô cùng dễ dãi. Doanh nghiệp cũng dễ bị liên luỵ, hàm oan vì cùng lúc phải lo quản đồng thời hai yếu tố pháp lý ngang ngửa nhau là chữ ký và con dấu.
- Không phù hợp, thậm chí mâu thuẫn trái ngược với quy định của pháp luật về giao dịch và chữ ký điện tử theo một loạt văn bản như:
- “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.”, theo quy định tại khoản 1, Điều 124 về “Hình thức giao dịch dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005;
- “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản”, theo quy định tại Điều 15 về “Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại”, Luật Thương mại năm 2005;
- “Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.”, theo quy định tại Điều 34 về “Thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử”, Luật Giao dịch điện tử năm 2005.
- Giải quyết vướng mắc khi bỏ con dấu pháp lý:
- Khi con dấu đã không có giá trị pháp lý bắt buộc, thì cũng không còn phải đặt ra vấn đề lo ngại là khó khăn nhận diện, xác định con dấu trước tình trạng “trăm hoa đua nở”, vì khi con dấu chỉ là hoa, là nghệ thuật, là tinh thần, thì càng đua nở, càng phong phú càng tốt.
- Tuy nhiên, con dấu pháp lý đối với doanh nghiệp đang được quy định trong hàng chục đạo luật và hàng trăm văn bản dưới luật. Vì vậy, việc bỏ con dấu pháp lý, bên cạnh việc không hề ảnh hưởng gì đối với một số quy định liên quan, thì cũng có nhiều vướng mắc pháp lý cần phải giải quyết. Nội dung cụ thể, xin xem Phụ lục Đánh giá sơ bộ vướng mắc đối với một số quy định trong 20 đạo luật hiện hành liên quan đến con dấu của doanh nghiệp và tổ chức tương tự doanh nghiệp, trong đó 28 điều khoản quy định về con dấu và có thể phân thành 2 nhóm như sau:
- 19 điều khoản có vướng mắc pháp lý cần giải quyết, do luật quy định phải có con dấu. Ví dụ như khoản 5, Điều 29 về “Hồ sơ thông báo sản phẩm quảng cáo trên bảng quảng cáo, băng-rôn”, Luật Quảng cáo năm 2012 quy định: “Trong trường hợp người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người quảng cáo là tổ chức thì phải có dấu của tổ chức.”
- 9 điều khoản không có vướng mắc pháp lý, không cần giải quyết, do luật không quy định cứng là phải có con dấu. Ví dụ, điểm đ, khoản 2, Điều 107 về “Uỷ quyền đại diện trong các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp”, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định: Giấy uỷ quyền phải có một trong các nội dung là: “đ) Chữ ký, con dấu (nếu có) của bên uỷ quyền.”
- Một điều trong một đạo luật hoặc Nghị quyết của Quốc hội là có thể hoá giải được quy định trong tất cả các đạo luật. Còn xử lý quy định nghị định, thông tư thì là điều quá đơn giản.
—————————–
Luật sư Trương Thanh Đức
ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN
FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)
E-mail: duc.tt @anvilaw.com
Web: www.anvilaw.com
ĐT: 090.345.9070
Đánh giá sơ bộ vướng mắc đối với một số quy định trong 20 đạo luật liên quan đến
con dấu của doanh nghiệp và tổ chức tương tự doanh nghiệp
—————————–
Luật sư Trương Thanh Đức
ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN
FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)
E-mail: duc.tt @anvilaw.com
Web: www.anvilaw.com
ĐT: 090.345.9070
[1] Tham luận thứ 6 của Luật sư Trương Thanh Đức, góp ý x ây dựng Dự thảo Luật Doanh nghiệp trong 2 năm 2013 – 2014.
[2] Tham luận Hội thảo góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp ngày 07-10-2014 tại VCCI.