294. Bỏ ham, giảm say vàng là thành công chống “vàng hóa”

(ANVI) – Sau 10 năm thực hiện Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý thị trường vàng cho thấy rằng mục tiêu chống “vàng hoá” đã rất thành công và cần tiếp tục giữ vững.

Quý như vàng nhưng phải giữ khoảng cách với vàng

Chúng ta vẫn thường nghe thấy câu ví von quý như vàng và nó vẫn không hề sai. Vàng cũng đã từng thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.

Năm 1945, trong “Tuần lễ Vàng” do Hồ Chủ tịch phát động đã thu được 370 kg vàng, giúp Chính phủ cách mạng non trẻ khi đó vượt qua những thiếu thốn về tài chính.

Một trong những yếu tố quan trọng đẩy lùi tình trạng lạm phát phi mã vào những năm 1980 (riêng năm 1986, kỷ lục lạm phát lên tới 774,7%), đó là đã mạnh dạn cho nhập khẩu 160 tấn vàng trong 3 năm 1986 -1988 để thu hồi bớt đồng tiền Việt Nam mất giá và tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách nhà nước.

Và việc ngăn chặn được tình trạng “vàng hoá, đô la hoá”, tức không để cho vàng và ngoại tệ lấn át hoặc thay thế VND, sử dụng vàng phổ biến như một loại tiền tệ, đã góp phần rất quan trọng vào việc giữ được sự ổn định của giá trị đồng tiền Việt Nam, ổn định nền kinh tế vĩ mô.

Với gần 20 trang sách mà tôi đã viết trong cuốn “Cẩm nang pháp luật ngân hàng”, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật ấn hành, có thể thấy, suốt từ năm 1946 đến nay, trải qua một thời kỳ kinh tế hành chính bao cấp và hai thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, nhưng chưa bao giờ Nhà nước buông việc quản lý vàng. Thậm chí có những giai đoạn như năm 1955, cấm việc mua bán vàng (trừ có giấy phép) và cấm thanh toán bằng vàng. Rồi pháp luật đã từng quy định, năm 1958 cá nhân có 5 chỉ vàng trở lên và năm 1978, có từ 1 chỉ vàng trở lên đều phải kê khai và được cấp Giấy chứng nhận.

Trong giai đoạn 2007 – 2009, mặc dù Nhà nước không cấp phép, nhưng các quy định của pháp luật về quản lý thị trường vàng còn chưa đầy đủ, nên các sàn vàng đã hình thành một cách tự phát và phát triển rất nhanh; trong thời gian này mỗi năm Nhà nước cho phép nhập khẩu chính thức khoảng 40 – 60 tấn vàng và vàng nhập lậu ước tính 50 – 60 tấn. Trong giai đoạn này, mặc dù sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới rất thấp, thế nhưng thị trường vàng trong nước vẫn rất bất ổn, thường xuyên có các cơn ”sốt” vàng, người dân đổ xô đi mua, bán vàng, hoạt động đầu cơ trên thị trường diễn ra mạnh mẽ đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường ngoại hối và tỷ giá, chỉ số giá cả và ổn định kinh tế vĩ mô, thậm chí gây bất ổn an ninh, trật tự xã hội. Các sàn vàng thu hút hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị tham gia, hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi ngày đáng lẽ phải phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì lại bị thu hút vào các sàn vàng, không trực tiếp, thậm chí cũng gần như chẳng gián tiếp tạo ra giá trị mới, mà chủ yếu chỉ là sự “móc túi” nhau. Chính vì vậy mà năm 2009 Chính phủ đã chính thức cấm và chấm dứt hoạt động của các sàn vàng trong nước cũng như hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Cho đến năm 2012, thì các hoạt động này mới hoàn toàn chấm dứt.

Trong giai đoạn 2009 – 2012, sự chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới nhìn chung vẫn ở mức thấp nhưng trung bình cao hơn nhiều so với giai đoạn trên; sự bất ổn của thị trường vàng và những tác động tiêu cực của nó đối với tỷ giá, chỉ số giá cả, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn diễn ra nhưng mức độ thấp hơn nhiều so với giai đoạn 2007 – 2009.

Hiện nay, Pháp lệnh Ngoại hối năm 2006 đang cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán. Luật Đầu tư năm 2020 đang quy định, vàng là mặt hàng kinh doanh có điều kiện. Riêng Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì vẫn cho phép việc góp vốn bằng vàng để khuyến khích đầu tư, kinh doanh.

Bỏ ham, giảm say vàng, giúp nguồn vốn đổ vào nền kinh tế hiệu quả hơn

Khi nền kinh tế tôn sùng vàng, cái gì cũng quy đổi ra vàng, thanh toán mua bán nhà đất, xe cộ, thậm chí nhiều mặt hàng thông dụng khác bằng vàng, thay thế vị trí độc tôn của đồng tiền pháp định, thì đồng tiền quốc gia rất dễ bị suy yếu, không còn vai trò, địa vị vốn dĩ cần phải có. Giá trị của đồng tiền pháp định bị coi nhẹ, không được tôn trọng, thì rất dễ dẫn đến nguy cơ tác hại khôn lường cho nền kinh tế, xã hội và cuộc sống của người dân. Bài học xương máu này chúng ta đã từng trải qua và không dễ quên.

Từ giữa năm 2012 đến nay, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về “Quản lý hoạt động kinh doanh vàng” đã tạo ra khuôn khổ pháp lý  một cách cơ bản và rõ ràng. Các sàn vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản không được phép hoạt động; nhà nước độc quyền trong 03 hoạt động: Sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu, và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Các doanh nghiệp kinh doanh vàng không được sản xuất vàng miếng, nhưng vẫn được sản xuất các loại vàng khác như vàng thỏi, vàng nhẫn, đồng thời vẫn được xuất khẩu vàng trang sức và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất, gia công các sản phẩm về vàng, ngoại trừ vàng miếng. Cũng từ đó đến nay hoạt động nhập lậu cũng bị kiểm soát chặt chẽ.

Từ đó đến nay, dù vẫn còn chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới (nhất là vàng miếng), song thị trường vàng đã trở nên ổn định so với trước đó rất nhiều, không còn hiện tượng làm giá hoặc cảnh người dân đổ xô đi mua bán vàng. Điều này cũng góp phần quan trọng vào việc ổn định thị trường ngoại hối.

Với những chính sách quyết đoán, hợp lý của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP đã làm cho giới kinh doanh vàng, nhất là các “đầu lậu” hiếm có cơ hội đầu cơ trục lợi, đặc biệt là làm cho người dân không còn tâm lý tích cóp, để dành găm giữ, dự trữ vàng, đã làm tăng sự tín nhiệm tiền đồng, đồng nghĩa với việc nguồn vốn được chuyển thẳng vào đầu tư kinh doanh một cách trực tiếp và có hiệu quả hơn. Người dân và doanh nghiệp chỉ có thể đặt lòng tin vào đồng tiền Việt Nam khi đã bỏ ham, giảm say vàng và ngoại tệ.

Giá vàng ảnh hưởng đến người dân và nền kinh tế như thế nào?

Trong thời gian qua, có một số thời điểm, do nhiều nguyên nhân khác nhau, giá vàng quốc tế có nhiều biến động và ít nhiều cũng ảnh hưởng đến giá vàng trong nước. Dư luận cũng có nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này.

Tôi cho rằng, giá vàng không ảnh hưởng nhiều đến người dân và nền kinh tế, bởi một số lý do sau đây:

Thứ nhất, không phải giá vàng nói chung tại thị trường Việt Nam chênh lệch nhiều so với thị trường thế giới, mà chỉ riêng vàng miếng SJC mới có tình trạng đó;

Thứ hai, việc này cũng là điều bình thường, dễ hiểu, đúng với quy luật cung cầu thị trường, từ khi Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng thì loại vàng miếng này chỉ được đúc một lần duy nhất vào năm 2013, mà không được tiếp tục sản xuất thêm, do đó trở thành mặt hàng khan hiếm. Quan trọng là chưa thấy có bất cứ lý do gì để sản xuất thêm loại vàng miếng này;

Thứ ba, không có doanh nghiệp nào được đặc ân hưởng lợi từ việc giá vàng miếng SJC đắt hơn hẳn so với các loại vàng khác, vì nó thuộc sở hữu Nhà nước, của Ngân sách quốc gia, chứ không phải thuộc sở hữu của Công ty TNHH một thành viên Vàng bạc đá quý Sài Gòn – SJC cũng như của bất kỳ công ty hay cá nhân nào khác;

Thứ tư, giá vàng nói chung tại thị trường Việt Nam không chỉ cao hơn, mà đã từng có thời kỳ thấp hơn thị trường quốc tế (khi thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ-CP, Việt Nam cũng đã từng xuất khẩu vàng); đặc biệt vàng miếng SJC cao hơn vàng quốc tế và các loại vàng khác, nhưng hoàn toàn không có ảnh hưởng gì xấu đến nhu cầu trang sức và cũng gần như chẳng ảnh hưởng gì bất lợi cho nền kinh tế, xã hội. Vàng nói chung, vàng miếng nói riêng không có chức năng thanh toán, không ảnh hưởng gì đến xuất nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, hàng hóa, trừ loại vàng theo tiêu chuẩn đặc biệt là ngoại hối dùng để thanh toán quốc tế giữa các quốc gia. Nó cũng khác hẳn với chứng khoán, không phải là một kênh để tạo ra sự thanh khoản và huy động vốn giúp cho nền kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng;

Thứ năm, giá SJC cao các loại khác, chủ yếu là do yếu tố tâm lý chứ không phải yếu tố kinh tế tác động đến cung cầu. Đơn giản là người dân muốn sở hữu loại vàng này, khi mua vào phải trả giá cao hơn thì khi bán ra lại được thu về với giá cao hơn, dù cùng trọng lượng và hàm lượng so với loại vàng khác.

Kinh tế thị trường không thể chung đường với “vàng hóa”

Trong thực tế đời sống, tuy vàng vẫn là loại tài sản rất có giá trị trong dự trữ và sử dụng cho trang sức cũng như một vài lĩnh vực sản xuất, nhưng nó lại không hề có tính thiết yếu phổ biến và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh như rất nhiều loại nguyên liệu, vật tư, hàng hoá khác.

Không thể phủ nhận rằng, vàng là một tài sản rất quý hiếm, có giá trị rất cao, mà không lưu thông hoặc tuy lưu thông nhưng lại không tạo ra giá trị gia tăng, thậm chí còn gây bất ổn cho nền tài chính, tiền tệ quốc gia, thì cũng không nên quá bận tâm.

Có thể vẫn cần phải rà soát, xem xét lại các nội dung cụ thể của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, nhưng tuyệt nhiên không vì việc cần phải chứng minh rằng, đó là yếu tố đòi hỏi cần thiết và có lợi cho nền kinh tế của chúng ta, nhất là trong tương lai gần. Vì chưa thấy cái lợi gì đáng kể và đáng phải đánh đổi khi chấp nhận thả cửa cho vàng được trở lại giao dịch thoải mái trên thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới rất bất ổn hiện nay.

Còn trong tương lai không xa thì hoàn toàn có thể để vàng tự do quay về đúng chỗ đứng của nó trong nền kinh tế thị trường. Nếu việc tích trữ, đầu cơ, mua bán, kinh doanh vàng nói chung và vàng miếng nói riêng, không ảnh hưởng gì đáng kể đến nền kinh tế, tài chính, tiền tệ thì chẳng có lý do gì phải ngăn cản, mà không mở cửa như đối hàng ngàn mặt hàng khác.

Bao lâu nay, rất khác với đặc điểm của nhiều nền kinh tế phát triển và cũng khác mọi loại tài sản, hàng hoá, vàng vẫn còn là mối quan tâm lớn và còn ăn sâu vào tâm trí của người Việt Nam, đồng thời cũng là “đối thủ rất đáng gờm” của đồng tiền Việt Nam.

Để cho người dân xa chán vàng, ngoại tệ thì sẽ tin yêu vào đồng nội tệ, còn ngược lại, nếu cứ mở cơ hội để mọi nhà ôm vàng, ngoại tệ thì đương nhiên họ sẽ xa lánh và buông bỏ đồng tiền Việt Nam.

Luật sư Trương Thanh Đức

Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC

(2.222) #SJC #24/2012/NĐ-CP

Bài viết 

308. Mất tiền từ séc giả, trách nhiệm thuộc...

(VNB) - Khi sự việc xảy ra, cần xác định ai là người có lỗi, lý do, nguyên...

Trích dẫn 

3.730. Ra mắt cuốn “cẩm nang” tra cứu về pháp...

(ND) - Cuốn sách “Cẩm nang pháp luật ngân hàng (Nhận diện những vấn...

Bình luận 

ANVI - Tranh luận lần 3 với SCB và Viện Kiểm sát...

(ANVI) - Gần như 99% bị cáo cúi đầu nhận tội, nhưng vẫn đều cảm...

Phỏng vấn 

4.279. Tình trạng thuê người mua ngoại tệ: Cần...

(HNM) - Gần đây trên mạng xã hội xuất hiện tình trạng đăng tin tìm...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”, gồm 334...

Số lượt truy cập: 206,496