3.511. Sớm hoàn thiện khung pháp lý cho vấn đề xử lý nợ xấu

Sớm hoàn thiện khung pháp lý cho vấn đề xử lý nợ xấu

(ND) – Trong bối cảnh thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42) chỉ được kéo dài đến hết năm 2023, việc luật hóa các quy định xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm liên quan trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) là cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý bền vững, giữ an toàn cho các tổ chức tín dụng.

Bên cạnh những mặt đã đạt được, sau hơn 12 năm thực hiện với một lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2017, một số quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng đã không còn phù hợp sự thay đổi của thực tiễn.

Đồng thời, Nghị quyết số 42 sau hơn sáu năm thí điểm cũng có nhiều khó khăn, vướng mắc phát sinh cần được rà soát hoàn thiện thêm.

Nợ xấu có chiều hướng gia tăng

Nghị quyết số 42 đã góp sức không nhỏ hỗ trợ hệ thống tổ chức tín dụng đẩy nhanh tốc độ xử lý, góp phần hoàn thiện thể chế, khung pháp lý cho công tác xử lý nợ xấu.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống đến cuối tháng 2/2023 đã lên tới 2,91%, tăng khá mạnh so với mức 2% cuối năm 2022 và gần gấp hai lần so cuối năm 2021.

Tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu gộp lần lượt giảm từ 2,5% và 10,1% năm 2016 xuống còn 1,6% và 4,4% năm 2019. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 cùng các điều kiện vĩ mô không thuận lợi trên phạm vi toàn cầu như xung đột Nga-Ukraine, môi trường lạm phát và lãi suất cao, sức cầu suy giảm mạnh,… cũng như các vấn đề nội tại nền kinh tế Việt Nam đã ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, làm tăng khả năng gia tăng nợ xấu lên hệ thống ngân hàng.

Trong báo cáo gửi Quốc hội mới đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống đến cuối tháng 2/2023 đã lên tới 2,91%, tăng khá mạnh so với mức 2% cuối năm 2022 và gần gấp hai lần so cuối năm 2021.

Tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 2/2023 ước chiếm 5% tổng dư nợ – gần tương đương với tỷ lệ nợ xấu nền kinh tế phải đối diện khi Nghị quyết số 42 bắt đầu có hiệu lực.

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Hùng – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) đánh giá, chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại đang suy giảm, vấn đề kiểm soát nợ xấu gặp nhiều khó khăn. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3%, nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thực tế, nhiều ngân hàng thương mại công bố kết quả kinh doanh năm 2022 và quý I/2023 cho thấy nợ xấu gia tăng mạnh so với trước. Nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng hơn 2%, một số ngân hàng nợ xấu tăng đột biến 4%.

Trong khi đó, Tiến sĩ Cấn Văn Lực – chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV cũng cho rằng, mặc dù Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành đã chủ động, quyết liệt ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, dự báo nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng có thể còn tăng trong năm 2023 khi rủi ro tín dụng gia tăng. Nguyên nhân do khách hàng phải chịu tác động cộng hưởng từ những rủi ro còn lại của dịch Covid-19; khó khăn trên thị trường bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp; cùng với tình hình kinh tế trong nước, quốc tế khó khăn và mặt bằng lãi suất còn ở mức cao.

Chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại đang suy giảm, vấn đề kiểm soát nợ xấu gặp nhiều khó khăn. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3%, nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Hùng – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

“Do vậy, trong bối cảnh thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42 chỉ được kéo dài đến hết năm 2023, việc luật hóa các quy định xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm liên quan trong Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) là cần thiết để tạo hành lang pháp lý bền vững xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng”, Tiến sĩ Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu Viện Đào tạo, nghiên cứu Ngân hàng BIDV phân tích.

Tránh tạo khoảng trống pháp lý

Hiện nay, nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về các tổ chức tín dụng, xử lý những vướng mắc, bất cập của luật hiện hành; luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, tiếp tục tạo hành lang pháp lý trong hoạt động xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng sau khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực từ ngày 31/12/2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) để trình Quốc hội cho ý kiến.

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng, dự thảo Luật được bố cục gồm 13 Chương, 195 Điều. Dự thảo luật đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng như sửa đổi, bổ sung quy định về người có liên quan; sửa đổi, bổ sung quy định những trường hợp không được đảm nhiệm chức vụ; giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cổ đông, một cổ đông và người có liên quan tại tổ chức tín dụng…

Đồng thời, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia và để bảo đảm có cơ chế ứng phó kịp thời khi phát sinh trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt có nguy cơ ảnh hưởng, đe dọa an toàn hệ thống, dự thảo luật đã bổ sung quy định về các biện pháp xử lý khi có sự cố rút tiền hàng loạt.

Bên cạnh đó, dự thảo luật đã luật hóa một số quy định tại Nghị quyết số 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng về nợ xấu, bán nợ xấu và tài sản bảo đảm; mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án;…

Cũng liên quan vấn đề cần giải quyết dứt điểm hơn việc xử lý nợ xấu, ông Darryl Dong – cán bộ quốc gia cao cấp Chương trình Kiến tạo thị trường Việt Nam thuộc Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) cho biết: Cần nhìn nhận nợ xấu là nội dung quan trọng đối với nền kinh tế, là một phần của hoạt động sản xuất, kinh doanh và không có gì sai khi có nợ xấu.

Tuy nhiên, chúng ta cần một khung pháp lý, một chương trình để làm sạch nợ xấu thay vì che giấu. “Để giải quyết hiệu quả vấn đề nợ xấu, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) lần này cần tạo cơ chế thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tham gia giải quyết vấn đề nợ xấu. Muốn làm được như vậy, luật sửa đổi cần mở cửa mạnh mẽ cho các nhà đầu tư tham gia giải quyết nợ xấu. Đồng thời, phải nêu rõ, cho phép các tổ chức phi ngân hàng mua bán nợ xấu trực tiếp từ các ngân hàng”, ông Darryl Dong đề xuất.

Đồng tình với quan điểm cần tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào vấn đề giải quyết nợ xấu tại Việt Nam bởi họ là những nhà đầu tư có kinh nghiệm, có nguồn lực đầu tư, song Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC cũng lưu ý, để thu hút được những nhà đầu tư này, Việt Nam cần có cơ chế cho người mua nợ kèm theo tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng được kế thừa hai quyền đặc biệt quan trọng là: tiếp tục được quyền thu giữ tài sản bảo đảm; tiếp tục được nhận thế chấp quyền sử dụng đất, rộng hơn là được nhận thế chấp bất động sản đối với các công ty mua bán nợ của nước ngoài.

“Việc tiếp tục cho phép nhận thế chấp quyền sử dụng đất đồng thời cần được sửa trong Luật Đất đai năm 2023. Điều này không chỉ tạo điều kiện cho thị trường xử lý nợ xấu nói chung mà còn ảnh hưởng quan trọng đến việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng” – Luật sư Trương Thanh Đức nhấn mạnh thêm.

Hồng Anh

————-

Nhân Dân (Tài chính chứng khoán) ngày 26-5-2023:

https://nhandan.vn/som-hoan-thien-khung-phap-ly-cho-van-de-xu-ly-no-xau-post754624.html

(209/1.654) #TCTD #NQ42

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,972