342. Băn khoăn thể chế kinh tế trong dự thảo Hiến pháp

(VNE) – Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI cho rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (điều 54) là gì cần được xác định rõ…

Nhiều luật sư bày tỏ sự băn khoăn đối với các quy định trong dự thảo Hiến pháp liên quan đến thể chế kinh tế Việt Nam, hiện đang được lấy ý kiến đóng góp rộng rãi.

Điều 54 của dự thảo Hiến pháp sửa đổi quy định: “1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. 2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.

Luật sư Trương Thanh Đức cho rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (điều 54) là gì cần được xác định rõ.

Nếu không thể phân biệt thế nào là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với kinh tế thị trường phi định hướng xã hội chủ nghĩa thì chỉ cần ghi “nền kinh tế thị trường” là đủ, tránh sự đối nghịch có thể xảy ra giữa hai vế là “kinh tế thị trường” và “kinh tế kế hoạch hoá tập trung”, đồng thời tránh mâu thuẫn với khoản 1, điều 55 “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường”.

Đối với khoản 2 nói trên, ông Đức cho rằng từ “quan trọng” ở đây để dành cho thành phần nào? Đã là “các thành phần kinh tế”, tức thừa nhận tất cả các thành phần, thì mới đủ cấu thành nên nền kinh tế. Do đó, nếu khẳng định tất cả đều là bộ phận quan trọng là sự mập mờ thừa, vì đã nói đến tất cả thì sẽ đều quan trọng hoặc đều không quan trọng như nhau.

Luật sư Nguyễn Tiến Lập cho rằng trên thế giới đã và đang tồn tại ba mô hình của trật tự kinh tế, đó là: kinh tế thị trường tự do (điển hình là nước Mỹ), kinh tế thị trường xã hội (điển hình là nước Đức) và kinh tế kế hoạch và chỉ huy (có lẽ điển hình là Bắc Triều Tiên và Cuba).

“Vậy, phải chăng Việt Nam đã và đang sáng tạo ra một “con đường thứ tư”: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?”, ông nêu câu hỏi.

Thông lệ của thế giới lấy hai khía cạnh để xem xét, đó là mục tiêu của Nhà nước thông qua phát triển nền kinh tế và mối quan hệ của nó với thị trường. Như vậy, khi khẳng định “định hướng xã hội chủ nghĩa” phải chăng chúng ta nhấn mạnh yếu tố mục tiêu, tức bảo đảm sự công bình tương đối về xã hội và chế độ an sinh xã hội phổ cập đối với người dân.

Điều này giống với mục tiêu của nền kinh tế thị trường xã hội của nước Đức, và khác với nền kinh tế thị trường tự do của nước Mỹ khi Nhà nước không quản lý tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và có tới trên 40 triệu người dân không có bảo hiểm y tế.

“Có nghĩa rằng, nếu cam kết theo đuổi mục tiêu này, Nhà nước phải đồng thời xác định trách nhiệm thực hiện được hai mục tiêu xã hội nói trên, đồng thời khẳng định trong Hiến pháp nguyên tắc nhà nước phải thực hiện phổ cập chế độ an sinh xã hội. Điều này có là thực tế trong những năm qua và khả thi trong những năm sắp tới không? Tôi e rằng không! Thậm chí, thực tiễn vừa qua đang đi ngược lại, ví dụ như việc tăng phí bệnh viện và phí học đường đang trở thành gánh nặng cho người nghèo chẳng hạn”, ông Lập nói.

Hậu quả của việc không xác định mô hình kinh tế và duy trì các mối quan hệ không rõ ràng giữa Nhà nước và thị trường sẽ tạo nên tình thế “không biết đằng nào mà lần” cho các doanh nghiệp, đồng thời biến họ thành các chủ thể phục thuộc ngày càng lớn hơn vào Nhà nước.

“Câu hỏi tại sao sau hơn hai mươi năm chuyển sang kinh tế thị trường mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vẫn èo uột như vậy và chủ yếu lấy cơ chế xin-cho làm tôn chỉ hành động, không tăng được năng lực cạnh tranh… phải chăng đã tìm được câu trả lời từ chính sự mập mờ của khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” này?”, ông Lập đặt vấn đề.

Mở rộng vấn đề, luật sư Vũ Xuân Tiền cho rằng cần đảm bảo sự thống nhất giữa thể chế kinh tế và thể chế về đất đai. Trong khi điều 54 khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”, thì điều 57 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên khác, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa , vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”.

Quy định như vậy, theo ông Tiền, đã và sẽ còn sự thiếu nhất quán về thể chế kinh tế và thể chế về đất đai. Khi chuyển nền kinh tế công hữu hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, quan hệ về đất đai trong xã hội đã thay đổi căn bản.

Thế nhưng Hiến pháp 1992 vẫn tiếp tục khẳng định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai như ghi trong Hiến pháp 1980. Như vậy thể chế đất đai đã không đồng nhất với thể chế chung của nền kinh tế. Đó là nguyên nhân của những bất cập trong hệ thống Luật Đất đai, tạo ra những mâu thuẫn lợi ích không thể dung hòa giữa người sở hữu đất với người sử dụng đất.

“Từ những phân tích trên, xin đề nghị xoá bỏ hình thức sở hữu toàn dân về đất đai, thay vào đó là quy định đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu của công dân và sở hữu của pháp nhân”, ông Tiền nói.

Nghệ Nhân

—————–

VnEconomy ngày 21-3-2013:

http://vneconomy.vn/20130321100442894P0C9920/ban-khoan-the-che-kinh-te-trong-du-thao-hien-phap.htm

 

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,969