(ANVI) – Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam .
Tôi xin tham gia ý kiến về Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức tín dụng với tổ chức hành nghề luật sư theo yêu cầu của Liên đoàn Luật sư, trên cơ sở đề nghị của Cục Bổ trợ tư pháp tại Công văn số 528/BTTP-LSTVPL ngày 11-6-2021 về việc “Tham gia ý kiến về hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức tín dụng với Công ty luật/Văn phòng luật sư” và Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước tại Công văn số 3979/NHNN-TTGS ngày 07-6-2021 về “Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa TCTD và Công ty luật/Văn phòng luật sư”.
Câu hỏi cần giải đáp theo các văn bản trên là: Tổ chức hành nghề luật sư đại diện cho tổ chức tín dụng yêu cầu khách hàng vay vốn trả nợ vay và nhận tiền trả nợ vay từ khách hàng vay có phù hợp với quy định của Luật Luật sư và các quy định pháp luật liên quan hay không?
Tôi cho rằng, việc tổ chức hành nghề luật sư nhận làm dịch vụ pháp lý đại diện cho tổ chức tín dụng yêu cầu khách hàng vay vốn trả nợ vay và nhận tiền trả nợ vay từ khách hàng là không trái với quy định của pháp luật, vì những căn cứ sau:
1. Không thuộc trường hợp bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật luật sư:
1.1. Không thuộc 10 trường hợp bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 1, Điều 9 về “Các hành vi bị nghiêm cấm”, Luật Luật sư năm 2006, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012:
“1. Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau đây:
- a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là vụ, việc);
- b) Cố ý cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật;
- c) Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;
- d) Sách nhiễu, lừa dối khách hàng;
đ) Nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý;
- e) Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc;
- g) Lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
- h) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho các khách hàng thuộc đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật; từ chối vụ, việc đã đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý, của các cơ quan tiến hành tố tụng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc theo quy định của pháp luật;
- i) Có lời lẽ, hành vi xúc phạm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng;
- k) Tự mình hoặc giúp khách hàng thực hiện những hành vi trái pháp luật nhằm trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác”.
1.2. Không thuộc trường hợp không được cung cấp dịch vụ pháp lý theo quy định tại khoản 3, Điều 49 về “Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân”, Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14-10-2013 của Chính phủ “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư”, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 08-10-2018.
“3. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên”.
2. Hợp đồng dịch vụ pháp lý nêu trên không bị cấm theo quy định của pháp luật liên quan như sau:
Không phải là “hoạt động ngân hàng”, bị “nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện” theo quy định tại khoản 2, Điều 8 về “Quyền hoạt động ngân hàng”, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
2.2 Không phải là hoạt động “Kinh doanh dịch vụ đòi nợ” bị cấm theo quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 6 về “Ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh”, Luật Đầu tư năm 2020;
2.3. “Không vi phạm điều cầm của luật” theo quy định tại Điều 514 về “Đối tượng của hợp đồng dịch vụ”, Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Nếu Luật sư thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý cụ thể thuộc trường hợp bị cấm như đã nêu tại các khoản 1 và 2 nêu trên thì sẽ vi phạm pháp luật.
4. Nếu Luật sư thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm thì “Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động hành nghề của luật sư” theo quy định tại khoản 2, Điều 9 về “Các hành vi bị nghiêm cấm”, Luật Luật sư năm 2006, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012.
Hà Nội 16-6-2021
—————————–
Luật sư Trương Thanh Đức
ĐC: Công ty Luật ANVI, tầng 2, Tòa nhà Savina, số 1 Đinh Lễ, phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, HN
E-mail: duc.tt @anvilaw.com
FB: Trương Thanh Đức (www.facebook.com/LSTruongThanhDuc)
Web: www.anvilaw.com
ĐT: 090.345.9070