4.048. Luật hóa xử lý nợ xấu để giải phóng nguồn lực đang bị “đóng băng” trong hệ thống tín dụng.

Luật hóa xử lý nợ xấu để giải phóng nguồn lực đang bị “đóng băng” trong hệ thống tín dụng.

(FILI) – TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam nhấn mạnh về việc hoàn thiện hành lang pháp lý không chỉ đơn thuần là một yêu cầu kỹ thuật, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực đang bị “đóng băng” trong hệ thống tín dụng. Theo ông, với dư nợ toàn nền kinh tế khoảng 4 triệu tỷ đồng, tỷ lệ nguồn lực bị ảnh hưởng nợ xấu là con số rất lớn, có nguy cơ trở thành “vốn chết”.
Luật hóa xử lý nợ xấu để giải phóng nguồn lực đang bị "đóng băng" trong hệ thống tín dụng

Tọa đàm “Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu”, do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 21/4 tại Hà Nội – Ảnh: VGP/HT

Đây là ý kiến của TS. Lê Duy Bình trao đổi tại Tọa đàm “Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu”, do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 21/4 tại Hà Nội.

Khoảng trống pháp lý và hệ lụy từ nợ xấu chưa được xử lý

Từ thực tế sau khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực đầu năm 2024, tiến trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) đang gặp không ít rào cản. Nhiều quy định cốt lõi trong nghị quyết này vẫn chưa được luật hóa, khiến nợ xấu có nguy cơ gia tăng và tạo áp lực lớn đến hệ thống ngân hàng, trong khi đó việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực đang khiến xử lý nợ xấu đình trệ, kiện tụng gia tăng.

Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội cho biết: Nhằm khắc phục khoảng trống pháp lý này, Thủ tướng đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước sửa Luật Các tổ chức tín dụng, luật hóa Nghị quyết 42. Dự kiến, dự thảo Luật này sẽ trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp tháng 5 tới đây.

Luật hóa là một yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay, tuy nhiên, việc chuyển hóa các quy định mang tính thí điểm thành luật đòi hỏi phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và đặc biệt là sự công bằng giữa các bên liên quan, bao gồm tổ chức tín dụng, khách hàng vay vốn và các chủ thể có quyền lợi liên đới khác.

Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội – Ảnh: VGP/HT

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam nhấn mạnh: Việc hoàn thiện hành lang pháp lý không chỉ đơn thuần là một yêu cầu kỹ thuật, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực đang bị “đóng băng” trong hệ thống tín dụng. Theo ông, với dư nợ toàn nền kinh tế khoảng 4 triệu tỷ đồng, tỷ lệ nguồn lực bị ảnh hưởng nợ xấu là con số rất lớn, có nguy cơ trở thành “vốn chết”.

Không dừng lại ở đó, theo TS. Lê Duy Bình, tác động kép từ nợ xấu là rất rõ rệt. Vốn không quay vòng được, trong khi tài sản bảo đảm đi kèm lại không thể xử lý do vướng pháp lý, khiến hệ thống ngân hàng vừa mất vốn, vừa “giam giữ” tài sản. Điều này làm gia tăng chi phí trích lập dự phòng, từ đó đẩy lãi suất cho vay tăng cao – một hệ lụy mà toàn nền kinh tế phải gánh chịu.

Vị chuyên gia này cho rằng, quyền thu giữ tài sản bảo đảm vốn là điều phổ biến ở nhiều quốc gia, được pháp luật bảo vệ như một quyền dân sự đương nhiên. Tuy nhiên, tại Việt Nam, quyền này chưa được thể chế hóa một cách đầy đủ, gây cản trở lớn cho việc thi hành hợp đồng tín dụng và xử lý nợ.

“Về khía cạnh xã hội, tâm lý ‘chây ỳ’ trong trả nợ đang có dấu hiệu quay trở lại. Khi người vay thiếu ý thức trách nhiệm, thậm chí coi tài sản vay được là ‘tiền của ngân hàng’, hệ quả sẽ là sự suy giảm niềm tin trong toàn hệ thống tài chính”, TS Lê Duy Bình cảnh báo.

Cấp thiết luật hóa quyền thu giữ tài sản nhưng cần kiểm soát chặt chẽ

Ngân hàng Nhà nước đã đề xuất luật hóa ba nhóm chính sách từ Nghị quyết 42, trong đó đáng chú ý nhất là quyền thu giữ tài sản bảo đảm nếu có thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng cần phải quy định rõ ràng để tránh bị lạm dụng.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI nhận định, điểm mới của dự thảo là cho phép thu giữ tài sản đang trong diện tranh chấp-điều mà Nghị quyết 42 trước đây không cho phép. Điều này sẽ làm gia tăng quyền lực của TCTD, do đó rất cần các cơ chế ràng buộc trách nhiệm để ngăn ngừa việc lạm dụng.

TS Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng phân tích: Không thể hiểu quyền thu giữ tài sản là quyền tuyệt đối; phải có điều kiện cụ thể, minh bạch. Việc thu giữ phải được áp dụng khi người vay không hợp tác, chây ỳ trả nợ. Theo TS Nguyễn Quốc Hùng, điều quan trọng nhất là bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng và người vay, trong đó tổ chức tín dụng phải tạo điều kiện tối đa cho những khách hàng thiện chí.

TS Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng phát biểu tại Tọa đàm – Ảnh: VGP/HT

“Thu giữ tài sản là giải pháp cuối cùng, không khác gì một biện pháp thi hành án. Bởi vậy, quy trình này cần công khai để người dân và các bên liên quan biết và có thể giám sát”, TS Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.

Từ góc độ đại diện cộng đồng doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI đồng tình với việc luật hóa quyền thu giữ tài sản, nhưng nhấn mạnh rằng phải có thiết chế kiểm soát quyền lực. Theo ông Đậu Anh Tuấn, luật cần quy định rõ trình tự, thủ tục thu giữ, có cơ chế giám sát độc lập và đảm bảo quyền phản hồi từ phía người vay.

Không những thế, ông Đậu Anh Tuấn cũng chỉ ra sự cần thiết của việc minh bạch hóa các thông tin liên quan: từ danh mục tài sản bảo đảm, thời gian xử lý, giá trị thu hồi cho tới cách phân chia khoản thu về…

“Nếu không làm rõ những nội dung này, tiêu cực dễ phát sinh, đặc biệt trong các giao dịch liên quan tới người yếu thế”, ông Đậu Anh Tuấn lưu ý.

Kỳ vọng từ phía ngân hàng và vai trò xây dựng niềm tin tín dụng

Nhấn mạnh cần cụ thể hóa quy định về thu giữ tài sản, ông Lê Duy Bình cho rằng: Cần thiết kế quy trình thu giữ tài sản bảo đảm dựa trên nguyên tắc hài hòa lợi ích-tức là không nghiêng về phía ngân hàng hay người vay, mà đặt trong khuôn khổ pháp luật công bằng, minh bạch. Đây là điều kiện để khôi phục lòng tin giữa các bên và đảm bảo trật tự tín dụng-yếu tố sống còn của nền kinh tế.

Bà Trần Hồng Nguyên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội đặt vấn đề về tính hợp hiến, hợp pháp và khả thi của các quy định đề xuất. Theo bà, việc luật hóa các nội dung như quyền thu giữ tài sản cần phải được xem xét tổng thể trong hệ thống pháp luật hiện hành, tránh mâu thuẫn và đảm bảo tính thống nhất.

Bà Trần Hồng Nguyên nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh nhiều nghị quyết đang được ban hành với các cơ chế đặc thù như quy định liên quan đến nhà ở xã hội, vành đai 4, hay Luật Thủ đô, thì việc đánh giá tính hợp hiến không nên theo công thức cứng nhắc, mà cần dựa trên tác động thực tiễn đối với người dân và nền kinh tế.

Về mặt kỹ thuật, bà Trần Hồng Nguyên cho rằng: Các quy định như thủ tục rút gọn trong xử lý tranh chấp cần được thiết kế cụ thể và thực chất hơn, tránh tình trạng soạn thảo hình thức. Đồng thời, cần có ý kiến của các cơ quan tố tụng như tòa án, viện kiểm sát để bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn.

Trong khi đó, ông Phan Đức Hiếu – Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội cho rằng: Các nhóm vấn đề lớn trong dự thảo (thu giữ tài sản, xử lý tài sản liên quan thi hành án, xử lý vật chứng) đều cần được luật hóa trên nguyên tắc minh bạch, cân bằng lợi ích và tính khả thi cao. Ông cũng đề xuất rằng cần tiến tới ban hành một đạo luật riêng về xử lý tài sản bảo đảm, để đảm bảo tính hệ thống, thay vì xử lý lẻ tẻ qua nhiều luật khác nhau.

Dưới góc độ ngân hàng thương mại, ông Hoàng Hải Vương – Giám đốc Khu vực Nam Sông hồng, Ngân hàng Eximbank nhấn mạnh: Quyền thu giữ tài sản không nên chỉ dừng lại ở văn bản pháp luật, mà cần có quy định rõ về trách nhiệm cá nhân khi để xảy ra nợ quá hạn, nợ xấu, hạn chế tối đa việc lạm dụng để “o bế”, lạm trục lợi việc bán tài sản khách hàng…

Nhật Quang

————-

Tài chính & Cuộc sống (Ngân hàng –  Bảo hiểm) ngày 22-4-2025:

https://fili.vn/2025/04/luat-hoa-xu-ly-no-xau-de-giai-phong-nguon-luc-dang-bi-dong-bang-trong-he-thong-tin-dung-757-1299270.htm

(66/1.703)

Bài viết 

415. Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai...

Tinh thần Nghị quyết 68: Không phải cứ sai phạm là tội phạm! (PLO)- Thực tiễn cho thấy có trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan tố tụng không thể không buộc tội. Nhưng, sắp tới mọi thứ sẽ khác... Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số. Hy vọng tinh thần này sẽ được thể chế hóa đầy đủ trong các luật, bộ luật sửa đổi sắp tới.Định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương trong xây dựng và thi hành luật pháp là luật chỉ quy định nguyên tắc, còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Đây không phải là quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.Chúng ta đã từng xây dựng luật theo hướng quy định chi tiết để khi được Quốc hội thông qua thì có thể thi hành, đi vào cuộc sống được ngay. Trong một thời gian dài, BLHS luôn cố gắng định lượng tất cả hành vi vi phạm, tất cả yếu tố cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, đánh bạc, trộm cướp, tham ô, lãng phí bao nhiêu tiền thì bị tù 3 năm, 5 năm, 20 năm, chung thân, tử hình.Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy có những trường hợp không đáng bị bắt, kết án tù tội nhưng vì BLHS đã chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự nhưng không bắt, không xử thì hóa ra lại làm trái luật. BLHS quy định cụ thể đến từng đồng thì còn đâu vai trò của các cơ quan pháp luật, ngoài việc cứ phải thật khớp, thật đúng với từng khung khoản, điểm, tiết.Có thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất vụ án thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội; hoặc tuyên một mức án nhân văn, phù hợp, chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng, dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, thẩm phán đành bó tay.Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả thì trộm cắp 50 triệu đồng có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng. Xử tội một người thì số tiền chiếm đoạt hay thiệt hại chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.Lâu nay luật quy định chi ly kiểu thế này: Người có hành vi trộm cắp một cái túi giống hệt nhau, nếu cái túi đó chứa 1,9 triệu đồng thì không phạm tội, nếu chứa 2 triệu đồng thì phạm tội ở mức độ nhẹ nhưng nếu chứa 50 triệu đồng thì tội nặng gấp đôi so với chứa… 49 triệu đồng. Vậy thì đạo lý, triết lý kết tội là gì?Tội trộm cắp là hiện tượng ngàn xưa, tương đối đơn giản, rõ ràng còn thế, huống chi với các tội phạm về kinh tế - vốn dĩ vô cùng phức tạp - mới thấy khó có thể xử lý một cách thấu lý, đạt tình như thế nào. Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: BLHS đã biến thẩm phán thành robot. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.Vì vậy, công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người được quyết định chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của họ gây ra cho xã hội.Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự - kinh tế - hành chính.BLHS quy định tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và hành vi vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong BLHS hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế nghiêm trọng đều là tội phạm.Như vậy, luật sẽ thực sự hợp lý, công bằng, nhân văn, nhân đạo, vì con người; cơ quan điều tra sẽ giảm thiểu oan sai; cơ quan công tố sẽ chỉ buộc tội được những hành vi đúng, rõ là tội phạm; tòa án sẽ chỉ tuyên những bản án mà bị cáo cũng như công chúng phải tâm phục, khẩu phục.Luật sư TRƯƠNG THANH ĐỨC (*)-------------------Pháp luật TP Hồ Chí Minh (Pháp luật) 12-5-2025:https://plo.vn/tinh-than-nghi-quyet-68-khong-phai-cu-sai-pham-la-toi-pham-post849220.html(*) Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật  ANVI(1.158)

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.475. Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho...

Nghị quyết 68 là “chiếc ô pháp lý' cho doanh nghiệp tư nhân. (ĐTTC)...

Trích dẫn 

4.069. Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room"...

Nghị định 69/2025 điều chỉnh tỷ lệ "room" ngoại: MB, HDBank, VPBank đón...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 247,970