4.569. Cần khung pháp lý chuyên biệt cho điện hạt nhân.

Cần khung pháp lý chuyên biệt cho điện hạt nhân.

(NLM) – Theo Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, phát triển điện hạt nhân đòi hỏi một cơ chế quản lý đặc thù, vừa linh hoạt trong phân quyền, vừa bảo đảm kiểm soát chặt chẽ mọi rủi ro. Ông nhấn mạnh, không thể áp dụng cách làm cũ, tức là giao cho “ông lớn” chịu trách nhiệm toàn bộ, mà cần chuyên môn hóa thẩm quyền ở từng khâu, từ phê duyệt, giám sát đến vận hành. Chỉ khi có cơ chế rõ ràng, đội ngũ chuyên trách và quy trình kiểm soát chéo nghiêm ngặt, điện hạt nhân mới có thể phát triển an toàn và minh bạch.

Phát triển điện hạt nhân không chỉ là câu chuyện về công nghệ hay đầu tư, mà còn là vấn đề về thể chế, khi mọi quyết định phải được đảm bảo bởi một khung pháp lý đủ mạnh, minh bạch và kiểm soát rủi ro tuyệt đối. Theo Luật sư Trương Thanh Đức, điện hạt nhân là lĩnh vực đặc biệt, do đó mọi quy định pháp lý đều phải nghiêm ngặt hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác.

Theo ông Luật sư Trương Thanh Đức, Việt Nam đã ban hành Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008, tuy nhiên luật này chưa thực sự đi vào cuộc sống. Mới đây, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2025 đã được thông qua, tạo cơ sở pháp lý để khởi động lại dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Tuy vậy, ông cho rằng cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh theo tư duy mới, mang tính đột phá về xây dựng pháp luật và quản trị quốc gia.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI

Từ kinh nghiệm quốc tế, Luật sư Trương Thanh Đức cho rằng, ngoài Luật Năng lượng hạt nhân, Việt Nam cần một khung pháp lý chuyên biệt cho điện hạt nhân, tách biệt tương đối khỏi các quy định chung về đất đai, đấu thầu, xây dựng, môi trường, thuế, bảo hiểm, phòng chống rủi ro…, đặc biệt là trách nhiệm quản lý. Hệ thống này phải bao quát toàn bộ chuỗi giá trị – từ chuẩn bị đầu tư, xây dựng, vận hành, xử lý chất thải, ứng phó sự cố đến chấm dứt hoạt động. Phải có quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm dân sự, hành chính và hình sự trong quản lý. Đặc biệt trong trường hợp xảy ra sự cố, tránh tình trạng “không ai chịu trách nhiệm cuối cùng” như đã từng gặp trong một số dự án lớn.

Một trong những vấn đề cốt lõi khi phát triển điện hạt nhân là cơ chế quản lý dự án. Theo ông Đức, không thể áp dụng cách làm cũ, tức là giao cho “ông lớn” chịu trách nhiệm toàn bộ, mà phải chuyên môn hóa thẩm quyền. “Điện hạt nhân không thể do quá nhiều cơ quan tham gia, vì không mang lại hiệu quả thực tế, nhưng cũng không thể chỉ giao cho một cơ quan làm tất cả. Từ phê duyệt, xây lắp, giám sát đến vận hành, từng khâu phải được phân định rõ, có đội ngũ chuyên trách, quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt, cơ chế kiểm soát chéo và quy định rõ trách nhiệm”, ông Đức phân tích.

Cụ thể, trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, Chính phủ cần tập trung vào việc ban hành khung pháp lý, thiết lập hệ thống kiểm soát an toàn quốc gia, trong khi việc thẩm định kỹ thuật, giám sát vận hành nên giao cho các cơ quan độc lập, có chuyên môn cao, tương tự mô hình của Cơ quan An toàn hạt nhân Nhật Bản hay Cơ quan Năng lượng nguyên tử Hàn Quốc.

Việc phân cấp cũng phải đi kèm cơ chế giám sát hai chiều – vừa đảm bảo tính chủ động, vừa ngăn ngừa sai phạm. Bài học từ các nước cho thấy, chỉ cần một kẽ hở, một sơ suất trong giám sát hay chồng chéo trách nhiệm, rủi ro hạt nhân có thể vượt ngoài khả năng kiểm soát của quốc gia. Do đó, ông Đức cho rằng, khi thiết lập thể chế, việc đơn giản hóa thủ tục, rút gọn tầng nấc hay chấp nhận sự phức tạp, nhiều cấp độ quản lý cần được cân nhắc, phụ thuộc vào yêu cầu hình thành hàng rào an toàn cần thiết cho điện hạt nhân.

Điện hạt nhân luôn tiềm ẩn nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng. Ông Đức thẳng thắn chỉ ra rằng: “Phát triển được bao nhiêu năng lượng, hiệu quả đến đâu cũng không thể so với một sự cố hạt nhân, bởi hậu quả là không thể đo đếm, có thể ở mức rất cao”. Theo ông, tư duy phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam phải đặt an toàn lên hàng đầu, coi đó là tiêu chí tối thượng, chấp nhận suất đầu tư cao hơn, thời gian xây dựng lâu hơn, thời hạn thu hồi vốn dài hơn.

Trong quản lý rủi ro hạt nhân, phòng ngừa quan trọng hơn xử lý. Các quốc gia đi trước như Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc đều dành tỷ lệ ngân sách rất lớn cho việc dự phòng, huấn luyện nhân sự và xây dựng kịch bản ứng phó sự cố. Việt Nam cũng cần có quỹ an toàn hạt nhân quốc gia, do cơ quan độc lập quản lý, để đảm bảo nguồn lực tài chính cho phòng ngừa và xử lý rủi ro.

Theo Luật sư Trương Thanh Đức, phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam trong giai đoạn mới cần ứng dụng toàn bộ công nghệ, quy chuẩn và tiêu chuẩn quốc tế hiện đại nhất. Thế giới hiện đã chuyển từ công nghệ lò phản ứng thế hệ II sang thế hệ IV – an toàn hơn, tiết kiệm hơn và có khả năng tự động ngắt sự cố.

Luật sư Trương Thanh Đức: Phát triển điện hạt nhân đòi hỏi một cơ chế quản lý đặc thù, vừa linh hoạt trong phân quyền, vừa bảo đảm kiểm soát chặt chẽ mọi rủi ro.

Việt Nam nên tham gia sâu hơn vào các điều ước quốc tế về an toàn hạt nhân, đồng thời học hỏi mô hình quản trị của các quốc gia có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cần đào tạo đội ngũ nhân sự pháp lý và kỹ thuật hạt nhân – những người hiểu đồng thời về công nghệ, pháp luật và quản trị rủi ro. Không thể có điện hạt nhân an toàn nếu thiếu “con người hạt nhân” đúng nghĩa.

Một trong những hạn chế khiến dự án điện hạt nhân Ninh Thuận trước đây bị dừng lại là thiếu cơ chế chính sách ổn định và cam kết dài hạn, dẫn đến tâm lý e ngại của các cơ quan chức năng và người dân. Ông Đức cho rằng, để tái khởi động điện hạt nhân, Việt Nam cần thiết lập chính sách đầu tư đặc thù, trong đó Nhà nước giữ vai trò điều phối, còn doanh nghiệp được tạo điều kiện tham gia trong khuôn khổ pháp lý chặt chẽ.

Đồng thời, phải minh bạch hóa quy trình phê duyệt, cấp phép và đấu thầu dự án, đảm bảo tất cả các khâu đều có sự giám sát của cơ quan độc lập, tránh xung đột lợi ích. Bên cạnh đó, chính sách thuế, đất đai, bồi thường và bảo hiểm hạt nhân cần được quy định rõ trong luật, thay vì xử lý bằng nghị định hoặc thông tư như trước đây.

Ông Đức cũng nhấn mạnh yếu tố nhất quán trong hoạch định chính sách. “Điện hạt nhân không thể làm kiểu “vướng mắc, khó khăn thì dừng lại”, vì mỗi lần dừng lại là mất hàng chục năm, hàng tỷ USD và niềm tin xã hội. Khi đã chọn hướng đi này, phải có tầm nhìn ít nhất 50 năm”, ông nói.

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm và phân tích các bất cập hiện nay, Luật sư Trương Thanh Đức đưa ra một số khuyến nghị trọng tâm: Thứ nhất, tiến hành rà soát toàn bộ khung pháp lý hiện hành về năng lượng nguyên tử, cập nhật phù hợp với công nghệ và tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ hai, xây dựng Luật Điện hạt nhân riêng biệt hoặc một chương chuyên sâu trong Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi, quy định rõ cơ chế đầu tư, giám sát, trách nhiệm và bảo hiểm.

Thứ ba, thiết lập cơ quan quản lý an toàn hạt nhân độc lập, trực thuộc Chính phủ, tách biệt khỏi cơ quan quản lý đầu tư hoặc doanh nghiệp vận hành.

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và chia sẻ dữ liệu minh bạch với các tổ chức quốc tế.

Thứ năm, ưu tiên tuyệt đối an toàn, coi đây là “giới hạn đỏ” trong mọi quyết định chính sách – kể cả khi phải đánh đổi chi phí đầu tư, lợi nhuận hay tiến độ.

Ngoài ra, cần thông tin, tuyên truyền cho người dân hiểu rõ về pháp luật cũng như công nghệ an toàn điện hạt nhân để không chỉ tạo sự đồng thuận với quyết sách lớn của đất nước, mà còn góp phần tham gia vào quá trình bảo đảm an toàn và xử lý rủi ro.

Phát triển điện hạt nhân là bước đi tất yếu nếu Việt Nam muốn đạt mục tiêu trung hòa carbon vào giữa thế kỷ này. Tuy nhiên, Luật sư Trương Thanh Đức khẳng định, điện hạt nhân là phép thử về năng lực thể chế và kỷ luật pháp lý của quốc gia.

Một khung pháp lý minh bạch, chuyên nghiệp, đặt an toàn và trách nhiệm lên hàng đầu sẽ là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tiến vào kỷ nguyên năng lượng hạt nhân một cách tự tin và bền vững. Khi pháp luật đủ mạnh, cơ chế đủ rõ và con người đủ năng lực, điện hạt nhân mới thực sự trở thành nguồn năng lượng của tương lai.

Đình Khương

—————

Petrotimes (Chuyển dịch năng lượng) ngày 13-10-2025:

https://petrotimes.vn/bai-2-can-khung-phap-ly-chuyen-biet-cho-dien-hat-nhan-733281.html

(1782)

Bài viết 

317. Sửa Luật Đất đai: Tránh biến bảng giá...

Sửa Luật Đất đai: Tránh biến bảng giá đất 5 năm thành ‘hàng năm trá...

Trích dẫn 

4.180. 'Cải cách không nằm ở chủ trương hay văn...

'Cải cách không nằm ở chủ trương hay văn bản, mà chính là thực thi'. (VNF)...

Bình luận 

449. Bình luận về việc tháo gỡ điểm nghẽn...

Bình luận về việc tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý cho doanh nghiệp (Tham...

Phỏng vấn 

4.568. Luật sư Trương Thanh Đức: Sâu sắc nhưng...

Luật sư Trương Thanh Đức: Sâu sắc nhưng lại lộ hết ruột gan. (VNF)...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật” Chuyên...

Số lượt truy cập: 266,186