168. Bình luận về pháp luật đăng ký tài sản nhìn từ góc độ tổ chức tín dụng.

(DCPL) Bài viết này bình luận quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký tài sản (bao gồm động sản, bất động sản) và sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về đăng ký tài sản nhìn từ góc độ của tổ chức tín dụng. Đây là bài viết theo đặt hàng của Bộ Tư pháp, tham gia Hội thảo “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Đăng ký tài sản tại Việt Nam” tại Hà Nội vào ngày 09 và 10/9/2013.

  1. Đánh giá chung:
  • Theo quy định của pháp luật hiện hành thì có rất nhiều loại giấy tờ, thủ tục và cơ quan đăng ký tài sản khác nhau (xem Phụ lục kèm theo). Nếu phân theo loại tài sản, thì có thể chia việc đăng ký tài sản thành hai loại là đăng ký động sản và đăng ký bất động sản. Nếu phân theo quyền tài sản, thì có thể chia việc đăng ký tài sản thành hai loại là đăng ký quyền sở hữu và đăng ký quyền sử dụng. Quyền sử dụng là khái niệm chỉ được dành riêng cho tài sản là đất đai, vì Hiến pháp quy định loại tài sản này chỉ thuộc sở hữu toàn dân.
  • Nhìn chung, pháp luật hiện hành về đăng ký tài sản còn rất chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu rõ ràng và nhiều bất cập khác, như mục đích của việc đăng ký tài sản không rõ, quy định về việc đăng ký tài sản chưa cụ thể, pháp luật đăng ký tài sản thiếu thống nhất. Vì vậy rất cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về đăng ký tài sản.
  1. Mục đích của việc đăng ký tài sản không rõ:
  • Pháp luật không quy định rõ mục đích của việc đăng ký tài sản là gì, tuy nhiên có thể suy diễn mục đích đầu tiên của việc đăng ký tài sản là ghi nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với từng tài sản cụ thể. Chẳng hạn như Giấy chứng nhận đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, thì đã ghi nhận ngay trong tên gọi chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản. Hay một loạt văn bằng bảo hộ, tuy tên gọi không thể hiện nội dung chứng nhận quyền sở hữu, nhưng đều là loại giấy tờ ghi nhận chủ sở hữu theo quy định tại Điều 92 về “Văn bằng bảo hộ”, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 gồm: Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý.
  • Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác thì không rõ mục đích của việc đăng ký tài sản. Chẳng hạn việc đăng ký và ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, mô tô, xe máy. Luật Giao thông đường bộ năm 2001 trước kia cũng như năm 2008 hiện nay chỉ quy định việc đăng ký và gắn biển số cho xe ô tô, mô tô, xe máy là để bảo đảm “Điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới” (Điều 53), chứ không có quy định nào xác định đó là việc đăng ký quyền sở hữu tài sản. Khó có thể khẳng định được rằng, trong trường hợp này, mục đích chính là nhằm để quản lý nguồn nguy hiểm cao độ hay để thu thuế, lệ phí hay là để đăng ký quyền sở hữu tài sản. Quay ngược trở lại khoảng nửa thế kỷ trước, pháp luật còn bắt buộc phải đăng ký cả radio và xe đạp. Và khi ấy thì càng khó biết mục đích đăng ký tài sản thật sự là gì?
  • Có thể hiểu rằng, các loại tài sản phải chịu phí trước bạ theo quy định tại Điều 2 về “Đối tượng chịu lệ phí trước bạ”, Nghị định số 45/2011/NĐ-CP ngày 17-6-2011 của Chính phủ về Lệ phí trước bạ cũng đồng thời là các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Tuy nhiên không rõ mục đích đăng ký các loại tài sản phải chịu phí trước bạ dưới đây là bởi chúng có giá trị lớn hay là vì là nguồn nguy hiểm cao độ hay là để nhà nước quản lý và thu thuế, lệ phí tài sản, giao dịch:
  • Nhà, đất;
  • Súng săn, súng thể thao;
  • Tàu thủy, kể cả sà lan, ca nô, tàu kéo, tàu đẩy;
  • Thuyền, kể cả du thuyền;
  • Tàu bay;
  • Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
  • Ô tô (kể cả ô tô điện), rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
  • Vỏ, tổng thành khung, tổng thành máy của tài sản nói trên phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  1. Quy định về việc đăng ký tài sản chưa cụ thể:
  • Điều 31 về “Đăng ký quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng”, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định: Chủ rừng được đăng ký quyền sử dụng rừng sản xuất là rừng trồng (phải tiến hành đồng thời với đăng ký quyền sử dụng đất) và được đăng ký quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng. Trong đó, việc đăng ký quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng được thực hiện theo quy định pháp luật dân sự về đăng ký bất động sản. Tuy nhiên, pháp luật dân sự lại chưa có quy định cụ thể về việc đăng ký bất động sản.
  • Điểm b, khoản 1, Điều 3 về “Mẫu Giấy chứng nhận”, Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21-10-2009 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường “Quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” (đã được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 20/2010/TT-BTNMT ngày 22-10-2010) quy định: Giấy chứng nhận ghi ““Thửa đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”, trong đó, có các thông tin về thửa đất, nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng, cây lâu năm” (trong mẫu Giấy chứng nhận ghi rõ 2 nội dung là “loại cây” và “nguồn gốc tạo lập”. Đồng thời khoản 6, Điều này cũng quy định “Thông tin về cây lâu năm thực hiện theo hướng dẫn của liên Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.” Khoản 7, Điều 34 về “Chứng nhận quyền sở hữu cây lâu năm”, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai tiếp tục quy định: “Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định cụ thể loại cây lâu năm được chứng nhận quyền sở hữu.” Cho đến nay, vẫn chưa thấy văn bản hướng dẫn cách ghi cây lâu năm vào Giấy chứng nhận. Vấn đề đặt ra là, khi nào thì cây lâu năm được ghi vào Giấy chứng nhận và liệu người ta có quyền yêu cầu cơ quan cấp Giấy chứng nhận ghi vào “Sổ đỏ” cây mít trong vườn hay cây vạn tuế ở trong bồn hoa hay không? Ngoài ra, mục đích, ý nghĩa và chế độ pháp lý của việc ghi nhận này là gì, rồi khi đốn hạ, chết mục, trồng lại,… thì có phải làm thủ tục pháp lý gì không?
  • Một số loại giấy tờ khác như các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác và thẻ tiết kiệm cũng có một số đặc điểm và giá trị tương đương với giấy chứng nhận đăng ký tài sản, nhưng có được coi là Giấy chứng nhận đăng ký tài sản không? Ví dụ như cổ phiếu được quy định tại khoản 1, Điều 85 về “Cổ phiếu”, Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó”. Hay Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu của doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2, Điều 6, Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24-8-2001 của Chính phủ về Quản lý và sử dụng con dấu (đã được sửa đổi, bổ sung  theo Nghị định số 31/2009/NĐ-CP ngày 01-4-2009), liên quan đến quy định tại khoản 2, Điều 36 về “Con dấu của doanh nghiệp”, Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Con dấu là tài sản của doanh nghiệp”. Hay thẻ tiết kiệm theo quy định tại khoản 3 và 4, Điều 6 về “Giải thích từ ngữ”, Quy chế về Tiền gửi tiết kiệm, ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13-9-2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: “ Chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là người đứng tên trên thẻ tiết kiệm.” và “4. Đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là 2 cá nhân trở lên cùng đứng tên trên thẻ tiết kiệm.”
  1. Pháp luật đăng ký tài sản thiếu thống nhất:
  • Chỉ tính từ năm 1993 đến nay, đã có ít nhất 3 cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký bất động sản là Uỷ ban Nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tài nguyên và Môi trường (không kể việc uỷ quyền), với ít nhất là 6 loại giấy tờ như sau:
  • Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993 (Giấy đỏ cũ);
  • Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị theo Nghị định 60-CP ngày 05-7-1994 (Giấy hồng cũ);
  • Giấy chứng nhận quyền quản lý, sử dụng nhà đất theo Quy chế Quản lý sử dụng trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính sự nghiệp, ban hành kèm theo Quyết định số 20/1999/QĐ-BTC ngày 25-02-1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính (Giấy tím);
  • Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất năm đai 2003 (Giấy đỏ mới);
  • Giấy chứng nhận quyền ở hữu nhà ở theo Luật Nhà ở năm 2005 (Giấy hồng mới);
  • Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo khoản 6, Điều 4, Luật số 38/2009/QH12 ngày 19-6-2009 Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 (Giấy đỏ mới nhất). Sau mấy chục năm tranh cãi mới tạm thống nhất được loại ”Sổ đỏ” này. Tuy nhiên, sự lựa chọn này vẫn là không hợp lý, cần phải được xem lại.
  • Hiện nay đang có 3 hệ thống đăng ký bất động sản riêng biệt là: Một hệ thống đăng ký đất ở có nhà ở, một hệ thống đăng ký đất ở không có nhà ở và một hệ thống đăng ký công trình xây dựng. Việc này đã tạo ra sự chồng chéo và xung đột, rắc rối cho cả chủ sở hữu và các cơ quan quản lý nhà nước, nhất là trường hợp chủ sở hữu nhà ở không đồng thời là chủ sử dụng đất.
  • Việc đăng ký tài sản là một vấn đề rất quan trọng, song đối với một số loại tài sản lại không được quy định cụ thể trong Luật, thậm chí cũng không được quy định trong Nghị định, mà chỉ được quy định trong Thông tư, vì vậy, giá trị pháp lý thấp và không bảo đảm sự ổn định. Ví dụ như Thông tư số 06/2009/TT-BCA(C11) ngày 11-3-2009 của Bộ trưởng Bộ Công an Quy định việc cấp, thu hồi đăng ký, biển số các loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ quy định tên giấy tờ là “Đăng ký mô tô, xe máy”. Đến Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12-10-2010 của Bộ trưởng Bộ Công an thì sửa thành “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” (thêm từ Chứng nhận”).
  1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về đăng ký tài sản:
  • Tình trạng pháp luật về đăng ký tài sản với quá nhiều loại giấy tờ, quá nhiều quy định, nhiều cơ quan quản lý như trên đã gây ra rất nhiều khó khăn, vướng mắc cho việc quản lý và giao dịch dân sự, nhất là đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Vì vậy, rất cần phải có những quy định rõ ràng, đồng bộ về việc đăng ký tài sản, để bảo đảm cơ sở và an toàn pháp lý trong các hoạt động gửi giữ tài sản, ký quỹ, cầm cố, thế chấp,…
  • Cần quy định rõ mục đích của việc đăng ký tài sản là gì, từ đó mới có những quy định thích hợp để giải quyết các vấn đề khi nào, tài sản nào phải đăng ký và cơ quan nào quản lý việc đăng ký tài sản, thay vì mọi thứ không rõ ràng như hiện nay.
  • Cần phải xem xét lại tên gọi các loại giấy chứng nhận tài sản, trong đó có “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”, vì đây là một tên gọi rất bất hợp lý, không đạt yêu cầu. Luật Đất đai đã đặt ra tên gọi chính danh, nhưng vì quá dài dòng, nên lại phải ngay lập tức gọi tắt là ”Giấy chứng nhận” một cách chung chung, thiếu đặc định, khi viết và đọc ra không phân biệt được với hàng trăm loại giấy chứng nhận khác. Và trên thực tế thì giấy này hầu như đều được đồng loạt gọi tắt là “Sổ đỏ”. Đây là loại giấy tờ đặc biệt quan trọng, có giá trị sử dụng trong rất nhiều năm, với số lượng lên tới hàng triệu bản, cần phải được đặt tên một cách đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu và đặc biệt là phải hữu dụng, thuận tiện trên thực tế. Vì vậy, đề nghị gọi bằng tên là “Giấy chứng nhận quyền sở hữu bất động sản”, trong đó có ghi nhận quyền sở hữu đất đai. Lý do ở đây là vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, thì đương nhiên phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, chứ không thể chỉ cấp duy nhất một loại giấy chứng nhận quyền sử dụng cho các cá nhân và pháp nhân cụ thể, tức là tạo ra một thứ quyền sở hữu chung chung vô thừa nhận. Đồng thời việc này còn có tác dụng ổn định hàng trăm năm một loại giấy tờ tài sản quan trọng nhất, dù cho sau này, Hiến pháp có giữ nguyên hay thay đổi quy định về quyền sở hữu đất đai. Hoặc ít nhất cũng cần phải gọi tên là “Giấy chứng nhận bất động sản”, còn nội dung ở bên trong thì ghi nhận quyền sở hữu hay quyền sử dụng đất hay bất cứ cái gì cũng đều phù hợp. Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, cũng đều là bất động sản. Và khái niệm bất động sản đã được nhắc đến trong 30 đạo luật từ năm 1990 đến nay như: Luật Công đoàn năm 1990, Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, Luật Giá năm 2012,….
  • Cuối cùng, nhu cầu cấp bách là cần phải ban hành một đạo luật quy định thống nhất các vấn đề liên quan đến việc đăng ký tài sản, khắc phục những bất cập nói trên, không chỉ đăng ký sở hữu mà còn đăng ký tình trạng của tài sản, trong đó có việc thế chấp. Hy vọng rằng, Luật Đăng ký tài sản là luật vì cái chung, sửa sai hệ thống pháp luật lâu nay, chứ không phải chỉ để giải quyết một vấn đề cụ thể mà một bộ ngành chịu trách nhiệm quản lý, dẫn đến tình trạng đất nước nhiễu loạn pháp luật, mỗi ngành đẻ ra một thứ luật, lo cho cái chung thì ít mà vì cái riêng thì nhiều.

—————————–

Trương Thanh Đức – Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC. 

——–

Tạp chí Dân chủ & Pháp luật tháng 10-2014                                                                              

 

Phụ lục 01

Một số loại giấy chứng nhận đăng ký tài sản

TTTên giấy chứng nhậnCơ quan cấpQuy định
1.Bằng bảo hộ giống cây trồng.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005
2.Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005
3.Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005
4.Bằng độc quyền sáng chế.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005
5.GCN đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc giaSở VHTTDLLuật Di sản văn hoá 2001 (sửa đổi 2009)
6.GCN đăng ký quyền tác giả.Cục Bản quyền tác giảLuật Sở hữu trí tuệ 2005
7.GCN đăng ký quyền liên quan.Cục Bản quyền tác giảLuật Sở hữu trí tuệ 2005
8.GCN đăng ký nhãn hiệu.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005
9.GCN đăng ký chỉ dẫn địa lý.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005
10.GCN đăng ký phương tiện giao thông đường sắt.Cục SHTTLuật Đường sắt 2005
11.GCN đăng ký phương tiện thuỷ nội địa.Cục Đường sắtLuật Giao thông đường thuỷ nội địa 2004
12.GCN đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đấtUBND cấp huyện

UBND cấp tỉnh

Luật Đất đai năm 2003
13.GCN đăng ký tàu biển Việt Nam.Cơ quan đăng ký tàu biển khu vựcBộ luật Hàng hải 2005
14.GCN đăng ký tàu cá.Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sảnNĐ 53/2012/NĐ-CP
15.GCN đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005
16.GCN đăng ký xe (ô tô; mô tô, xe máy).Công an tỉnh, TP

Cục CSGT đường bộ, đường sắt

Thông tư 36/2010/TT-BCA
17.GCN loại đối với tàu bay, động cơ tàu bay.Cục HKDDLuật Hàng không dân dụng 2006
18.Văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp.Cục SHTTLuật Sở hữu trí tuệ 2005

 

 

Phụ lục 02

Một số loại giấy chứng nhận khác liên quan đến tài sản

TTTên giấy chứng nhậnCơ quan cấpQuy định
1.GCN đăng ký doanh nghiệp[1]Phòng Đăng ký kinh doanhLuật Doanh nghiệp 2005

(Nghị định

2.GCN đăng ký cảng hàng không, sân bayCục HKDDLuật Hàng không dân dụng 2006
3.GCN đăng ký quốc tịch tàu bay.Cục HKDDLuật Hàng không dân dụng 2006
4.GCN di sản văn hoá phi vật thểCục Di sản VHLuật Di sản văn hoá 2001 (sửa đổi 2009)
5.GCN đăng ký trại nuôi sinh sản động vật hoang dãChi cục Kiểm lâm địa phươngThông tư số 116/2013/TT-BTC Hướng dẫn miễn thuế xuất khẩu mặt hàng da trăn có nguồn vốn từ gây sinh sản
6.Nhiều loại giấy tờ khác

   

[1]   Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được cấp theo quy định tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15-4-2010 của Chính phủ Về đăng ký doanh nghiệp có vẻ gắn với việc công nhận sản nghiệp hơn là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Bài viết 

308. Mất tiền từ séc giả, trách nhiệm thuộc...

(VNB) - Khi sự việc xảy ra, cần xác định ai là người có lỗi, lý do, nguyên...

Trích dẫn 

3.731. Có nên đánh thuế nước sạch?

(TN) - Là mặt hàng "thiết yếu nhất trong các loại thiết yếu", nhưng nước...

Bình luận 

ANVI - Tranh luận lần 3 với SCB và Viện Kiểm sát...

(ANVI) - Gần như 99% bị cáo cúi đầu nhận tội, nhưng vẫn đều cảm...

Phỏng vấn 

4.279. Tình trạng thuê người mua ngoại tệ: Cần...

(HNM) - Gần đây trên mạng xã hội xuất hiện tình trạng đăng tin tìm...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”, gồm 334...

Số lượt truy cập: 206,724