4.507. Đưa vàng thành vốn lưu thông trong nền kinh tế.

Đưa vàng thành vốn lưu thông trong nền kinh tế.

(KTVN) – Bài có sự tham gia của Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC.

“Trước năm 2012, toàn bộ nền kinh tế là “con tin” của vàng; mọi giao dịch có giá trị cao đều được thực hiện bằng vàng, mọi tài sản lớn đều được quy ra vàng. Khi ấy, nhiều ngân hàng thực hiện huy động vốn bằng vàng, giá vàng tăng cao, người dân đổ xô rút vàng, ngân hàng rơi vào khủng hoảng thanh khoản dẫn đến chao đảo thanh khoản ở không ít ngân hàng, hệ lụy đến hôm nay vẫn chưa giải quyết triệt để. Thời điểm đó, tiền VND mất giá, lạm phát lên đến mấy chục phần trăm.

Trong bối cảnh ấy, Nghị định 24 ra đời với nhiều quy định kiểm soát nghiêm ngặt giống như liều thuốc đặc trị tâm lý sùng bái vàng trong dân, qua đó hạn chế ảnh hưởng của vàng đến chính sách tiền tệ, khôi phục niềm tin vào VND.

Giá trị đồng tiền ổn định là yếu tố then chốt để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đồng tiền ổn định, người dân mới yên tâm gửi tiết kiệm, doanh nghiệp mới mạnh dạn đầu tư sản xuất.

Tuy nhiên, cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo Nghị định 24 đã tồn tại quá lâu, nhiều nội dung không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay; đã đến lúc cần sửa đổi, bổ sung, bao gồm cả quy định cấm và chế tài xử phạt rõ ràng. Tôi muốn nhấn mạnh rằng quản lý thị trường vàng lỏng lẻo sẽ gây rủi ro vì vàng là hàng hóa đặc biệt, không giống các loại tài sản khác.

Thực tế, Việt Nam từng kiểm soát nghiêm ngặt sở hữu vàng, như năm 1987, cá nhân sở hữu từ một chỉ vàng trở lên cũng phải khai báo và đăng ký với Nhà nước. Ở Việt Nam hiện nay, tâm lý “có vàng thì yên tâm” vẫn phổ biến, nhất là trong bối cảnh bất ổn, do quan niệm vàng giữ giá trị và an toàn hơn.

Một số ý kiến ủng hộ việc thả nổi hoạt động nhập khẩu vàng nên viện dẫn lý do rằng mỗi năm Việt Nam bỏ ngoại tệ ra nhập rượu ngoại và xì gà còn nhiều hơn nhập vàng, tại sao không lo chảy máu ngoại tệ và ảnh hưởng tới tỷ giá?

Bởi vì vàng sau khi nhập về thường được tích trữ, không tham gia sản xuất hay tiêu dùng, khiến lượng ngoại tệ chi ra không quay trở lại nền kinh tế. Trong khi đó, hàng xa xỉ dù tốn ngoại tệ nhưng vẫn kích thích tiêu dùng, tạo việc làm trong các ngành dịch vụ, từ đó thúc đẩy tăng trưởng. Do đó, việc nhập khẩu vàng phải được kiểm soát chặt chẽ chứ không thể “thả cửa”.

Trực tiếp làm việc trong ngành ngân hàng ở giai đoạn “vàng hóa”, tôi kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tuyệt đối cấm tổ chức tín dụng huy động vàng bởi khi giá vàng biến động, rủi ro mất khả năng chi trả sẽ đe dọa hệ thống ngân hàng. Không để vàng trở lại đóng vai trò là phương tiện thanh toán như đã từng xảy ra, dẫn đến suy yếu VND, rối loạn nền kinh tế.

Thời gian tới, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu giải pháp, cơ chế để định danh vàng, kiểm soát cung – cầu vàng và đường đi của vàng để chống rửa tiền, buôn lậu, trốn thuế.

Việc tổ chức sàn giao dịch vàng cũng phải được tiến hành thận trọng, nhất là đối với vàng vật chất. Theo tôi, trong giai đoạn đầu, sàn giao dịch vàng trong nước không cần liên thông với quốc tế. Cơ quan quản lý có thể cho phép giao dịch vàng tài khoản, vàng tài chính nhưng chỉ thị trường trong nước, tương tự như giao dịch chứng khoán hiện nay. Mục tiêu là không để dòng vốn chảy ra nước ngoài trong bối cảnh nguồn lực trong nước để phát triển kinh tế còn rất eo hẹp”.

“Trước những bất ổn diễn ra trên thị trường vàng thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành liên quan nghiên cứu các giải pháp cải cách toàn diện, không chỉ để xử lý tình trạng “sốt giá” và chênh lệch giá quá cao như hiện nay, mà còn để hướng tới một thị trường vàng minh bạch, ổn định và bền vững trong dài hạn.

Việc chấm dứt tình trạng độc quyền kinh doanh vàng miếng, cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia dưới sự kiểm soát và điều tiết chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước có thể cân bằng lại cung-cầu trên thị trường. Đồng thời, sử dụng công cụ thuế và phí để hạn chế nhu cầu đầu cơ vàng. Mọi giao dịch vàng cần được quản lý bằng hóa đơn rõ ràng và kết nối với hệ thống dữ liệu của cơ quan thuế để tăng tính minh bạch.

Song song với đó, cơ quan chức năng cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu, đầu cơ, thao túng giá vàng, đặc biệt trong bối cảnh thị trường đang nhạy cảm như hiện nay. Việc sửa đổi, cập nhật Nghị định 24 theo hướng linh hoạt hơn, phù hợp với tình hình mới cũng được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần ưu tiên.

Về trung hạn, mục tiêu lớn hơn là từng bước xây dựng một thị trường vàng hiện đại, minh bạch và có khả năng hội nhập quốc tế. Một trong những đề xuất đáng chú ý là thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia – nơi các sản phẩm như chứng chỉ vàng, vàng tài khoản hay vàng phái sinh có thể được giao dịch công khai, có chuẩn mực. Việc đa dạng hóa sản phẩm vàng tài chính sẽ giúp chuyển vàng từ tài sản cất giữ sang tài sản có thể luân chuyển, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.

Việc mở rộng khả năng nhập khẩu vàng theo hạn ngạch phù hợp, khuyến khích các nhà tinh luyện trong nước và phát triển chuỗi cung ứng nội địa sẽ giúp tăng chủ động nguồn cung và giảm phụ thuộc vào biến động bên ngoài.

Để thị trường vàng phát triển ổn định và bền vững, cần xây dựng một mô hình quản lý thị trường vàng với các vai trò được phân định rõ ràng, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong vận hành. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ đóng vai trò là cơ quan quản lý chính, có nhiệm vụ ban hành chính sách, điều tiết và giám sát toàn bộ hoạt động của thị trường.

Một điểm nhấn quan trọng là thành lập Sàn Giao dịch Vàng Quốc gia. Đây sẽ là nơi vận hành các hoạt động giao dịch vàng theo chuẩn mực quốc tế, công khai và minh bạch, giúp giảm tình trạng đầu cơ, thao túng giá và đưa vàng trở thành một loại tài sản tài chính thực sự”.

“Hiện nay, hoạt động kinh doanh vàng tại Việt Nam chịu sự điều chỉnh của nhiều chính sách thuế quan trọng, bao gồm: thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc các cơ quan chức năng nghiên cứu bổ sung các sắc thuế đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng là cần thiết nhằm mở rộng cơ sở thu.

Đối với thị trường vàng miếng, hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu vàng nguyên liệu chỉ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện và được miễn thuế. Vàng miếng chủ yếu dùng để tích trữ, không tạo ra giá trị nên không phải chịu thuế giá trị gia tăng.

Ngược lại, trên thị trường vàng trang sức, mỹ nghệ, vàng đã được pha trộn với các kim loại khác và chế tác thành sản phẩm hoàn chỉnh, nên được xem như một loại hàng hóa. Trong trường hợp này, vàng chịu các loại thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, nếu thuộc về các doanh nghiệp kinh doanh thì còn chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

Về mặt quản lý, vàng miếng không được coi như một loại hàng hóa nên hiện không áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng. Nếu chuyển hướng coi vàng miếng là hàng hóa thì hoạt động mua bán sẽ trở nên minh bạch, thuận tiện hơn và tạo điều kiện để thu thuế, chủ yếu là thuế giá trị gia tăng. Trong trường hợp cá nhân kinh doanh vàng miếng sẽ phải áp dụng thêm thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp tương ứng.

Về chính sách xuất nhập khẩu, tôi cho rằng cần áp dụng thuế xuất khẩu đối với vàng nguyên liệu và vàng thỏi để hạn chế việc xuất khẩu tài nguyên thô. Thay vào đó, nên khuyến khích chế tác vàng để gia tăng giá trị, từ đó thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng lao động cao như vàng thủ công mỹ nghệ.

Những sản phẩm vàng có mức độ chế tác tinh xảo không chỉ phản ánh giá trị vật chất mà còn thể hiện giá trị lao động, là yếu tố cần được khuyến khích.

Do đó, chính sách thuế nên ưu đãi đối với sản phẩm vàng chế tác có hàm lượng vàng thấp, đồng thời áp dụng mức thuế cao với sản phẩm đơn thuần là tài nguyên thô, hàm lượng vàng cao.

Trên thực tế, Việt Nam đã áp dụng quy định nếu sản phẩm xuất khẩu có trên 51% là khoáng sản thì không được hưởng thuế suất xuất khẩu 0%, cho thấy định hướng hạn chế xuất khẩu tài nguyên còn thô sơ và ưu tiên giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất”.

“Hiện nay, lượng vàng tiêu thụ trong thị trường nội địa được chia làm hai mục đích chính: tích trữ như một loại tài sản và phục vụ sản xuất, kinh doanh (trang sức, mỹ nghệ,…).

Vàng chỉ được tích trữ khi có khả năng sinh lời. Thời gian qua, nhiều người đầu cơ vàng vì kỳ vọng kim loại quý này sẽ tăng giá. Vấn đề then chốt hiện nay là chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và giá thế giới đã kích thích hành vi đầu cơ. Khi thị trường vàng trở nên minh bạch, đầu cơ không còn sinh lời, dòng vốn sẽ tự động chuyển vào sản xuất. Đây là nguyên lý “bàn tay vô hình”. Mọi lựa chọn của người dân và doanh nghiệp như đầu tư, đầu cơ hay sản xuất đều có một tỷ suất lợi nhuận nhất định, khi thị trường được công khai, minh bạch, các tỷ suất này sẽ trở về mức cân bằng.

Vậy, làm thế nào để thị trường vàng trở nên minh bạch? Trước tiên, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan cần quản lý được lượng vàng lưu thông, tiến tới định danh vàng như các loại tài sản khác. Khi đó, vàng có thể được truy vết, tính thuế và giám sát dòng di chuyển một cách rõ ràng.

Song song với đó, Nhà nước cần thực hiện giải pháp căn cơ nhất để ổn định thị trường vàng là chấm dứt độc quyền sản xuất và phân phối vàng miếng SJC, đồng thời cấp phép cho các doanh nghiệp đủ điều kiện được sản xuất vàng nguyên chất. Nghĩa là, Nhà nước chỉ kiểm soát chặt chẽ nguồn cung vàng, kiểm định chất lượng, còn lại để thị trường tự điều tiết theo quy luật cung – cầu.

Tuy nhiên, chỉ xóa bỏ độc quyền là chưa đủ để thị trường vàng ổn định. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu các giải pháp như cho phép nhập khẩu vàng và lập sàn giao dịch vàng nhằm chuyển hóa vàng thành vốn lưu thông trong nền kinh tế. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước là đơn vị sử dụng dự trữ ngoại hối quốc gia để nhập khẩu vàng. Vì vậy, Chính phủ có thể xem xét phương án tăng dự trữ vàng quốc gia, bởi vàng cũng là một phần trong dự trữ ngoại hối.

Đối với doanh nghiệp muốn nhập khẩu vàng, cần xây dựng cơ chế cấp hạn ngạch nhập khẩu chính ngạch với các điều kiện, tiêu chí rõ ràng, công khai, minh bạch. Nên ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp sản xuất thực sự; đồng thời, cần loại trừ những doanh nghiệp đầu cơ, chỉ nhập khẩu vàng để mua bán kiếm lời”.

“Kết luận thanh tra 6 đơn vị kinh doanh vàng được công bố vừa qua đã phản ánh rất rõ thực trạng về cơ chế phối hợp liên ngành để quản lý thị trường vàng hiện nay, chúng ta cần nhìn nhận trực diện vào những thiếu sót còn tồn tại.

Thứ nhất, còn thiếu tính ràng buộc, phân công chưa rõ ràng. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chủ trì quản lý thị trường vàng nhưng lại không có đủ công cụ để giám sát thương mại điện tử, xử lý hành vi vi phạm thuế, rửa tiền hay buôn lậu. Trong khi đó: Bộ Công Thương quản lý hoạt động thương mại điện tử; Cục Thuế (Bộ Tài chính) kiểm soát thuế; Bộ Công an xử lý hành vi rửa tiền, buôn lậu. Tuy nhiên, thiếu quy chế phối hợp chặt chẽ, cơ chế chia sẻ thông tin còn chậm và rời rạc.

Thứ hai, thiếu kết nối dữ liệu và giám sát số hóa. Hiện, chưa có hệ thống kết nối dữ liệu giữa App giao dịch vàng với Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan thuế và Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05, Bộ Công an). Điều này khiến các cơ quan quản lý không thể giám sát giao dịch theo thời gian thực, dẫn đến bị động trước các hành vi vi phạm tinh vi qua nền tảng số.

Thứ ba, chưa có tổ công tác liên ngành chuyên trách về thị trường vàng. Trong khi thị trường bất động sản, trái phiếu hay tài sản số đã có các tổ công tác liên ngành được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thành lập, thì đối với thị trường vàng, một mặt hàng chiến lược và nhạy cảm, cơ chế này vẫn chưa được thiết lập một cách rõ ràng và thường xuyên.

Ngoài ra, từ các mức phạt hành chính được nêu trong kết luận thanh tra, có thể thấy các doanh nghiệp vi phạm đã bị xử phạt số tiền đáng kể.

Tôi cho rằng với các vi phạm nhỏ lẻ, không cố ý, các mức phạt hiện tại có thể có tác dụng răn đe nhất định. Tuy nhiên, với các vi phạm có tổ chức, tinh vi, lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm lớn, dư luận và một số chuyên gia cho rằng mức phạt hành chính hiện tại có thể chưa đủ sức răn đe, đặc biệt khi so sánh với lợi ích tiềm năng từ các hoạt động phi pháp như buôn lậu, thao túng giá, hoặc trốn thuế. Việc một số doanh nghiệp lớn vẫn để xảy ra các sai phạm lặp lại cho thấy cần xem xét tính hiệu quả thực tế của các chế tài.

Về lâu dài, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định 88/2019/NĐ-CP theo hướng tăng mức phạt và điều chỉnh các hành vi vi phạm cho phù hợp với thực tiễn sẽ góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Bên cạnh việc tăng nặng chế tài, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên, đột xuất và đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong xử lý vi phạm cũng là yếu tố then chốt để nâng cao tính răn đe”.

 

Phan Linh

—————

Kinh tế Việt Nam (Tiêu điểm) ngày 09-6-2025:

https://vneconomy.vn/dua-vang-thanh-von-luu-thong-trong-nen-kinh-te.htm

https://media.vneconomy.vn/res/qc/infographic/diembao/2025/so23_2025/trang.html?page=6

(689/2.769)

Bài viết 

316. “Không hình sự hóa” - thêm niềm tin cho doanh nhân.

“Không hình sự hóa” - thêm niềm tin cho doanh nhân. (DĐDN) - Luật...

Trích dẫn 

4.109. Xóa thuế khoán để mở đường cho hộ kinh...

Xóa thuế khoán để mở đường cho hộ kinh doanh lên doanh nghiệp. (PTQ)...

Bình luận 

445. Bình luận về việc Thế chấp tài sản số...

Bình luận về việc Thế chấp tài sản số tại ngân hàng. (Tham luận...

Phỏng vấn 

4.508. Đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, quyền...

Đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, quyền lợi ra sao, tuổi nào còn kịp? (VTV1)...

Tám luật 

334. ANVI xì luật hay Lạm bàn tám luật.

(ANVI) - “Lạm bàn tám luật” hay còn gọi là “ANVI xì luật”Chuyên...

Số lượt truy cập: 251,761